DN dệt may Việt Nam và quốc tế yêu cầu nhãn hàng hành xử công bằng & có trách nhiệm

Hiệp hội dệt may của 9 quốc gia châu Á, Trung Đông và Bắc Phi trong đó có Việt Nam đang có những bước đi kiên quyết nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng trong quan hệ với nhiều nhãn hàng và nhà bán lẻ thời trang châu Âu và Mỹ – những vị thượng đế đang được xem là lạm dụng quyền của người mua và dồn gánh nặng của đại dịch COVID lên vai các nhà cung ứng và người lao động ở các quốc gia đang phát triển.

13 hiệp hội đại diện cho các công ty dệt may của Bangladesh, Campuchia, Indonesia, Myanmar, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan, Thổ Nhĩ Kỳ và Morocco – các quốc gia tạo ra gần 70% lượng hàng may mặc xuất khẩu toàn cầu, đang tiến tới hoàn tất một dự thảo văn bản về các điều khoản mua hàng trách nhiệm – làm cơ sở để thương thuyết, đáp trả sự chèn ép của khách hàng để hoạt động mua-bán đều có lợi cho hai phía. 

Sự chèn ép của nhiều nhãn hàng thời trang

Vào thời điểm này năm ngoái, rất nhiều công ty may mặc trên khắp thế giới đã rơi vào tình trạng điêu đứng khi nhiều nhãn hàng và nhà bán lẻ dồn dập hoãn, hủy, từ chối không trả tiền hay giảm giá các hợp đồng đã ký kết do ảnh hưởng của đại dịch COVID. Theo một báo cáo của Hiệp hội các nhà xuất khẩu và sản xuất dệt may Banglades (BGMEA), chỉ riêng trong tháng 3 & 4/2020, tổng số đơn hàng bị hoãn, hủy các DN nước này lên tới 3,7 tỷ USD và khách hàng của họ là hơn 1900 nhãn hàng và nhà bán lẻ châu Âu và Bắc Mỹ. Theo báo cáo tựa đề Hàng tỷ đô la không trả Unpaid Billions  của Trung tâm về Quyền của người lao động toàn cầu (CGWR), trong những tháng đầu của đại dịch COVID-19, nhiều nhãn hàng đã hoãn hủy và từ chối thanh toán số đơn hàng có tổng trị giá lên đến 40 tỷ USD. Theo thống kê của liên minh phong trào PayUp, tính tháng 4/2021, nhiều nhà bán lẻ và nhãn hàng thời trang vẫn còn nợ các nhà sản xuất 18 tỷ USD trong số 40 tỷ USD này.

Thừa nhận các khó khăn các nhãn hàng và nhà bán lẻ gặp phải khi hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội trong đó có việc đóng cửa các cửa hàng bán lẻ, báo giới và các tổ chức nhân quyền vẫn không thể không lên tiếng những hành xử được xem là thiếu trách nhiệm và đạo đức của những người mua hàng này. Rất nhiều nhãn hàng và nhà bán lẻ, trong đó có cả những tập đoàn hàng đầu thế giới đã đơn phương thay đổi những điều khoản hợp đồng đã ký kết cách đó nhiều tháng và không cho các nhà cung ứng có cơ hội được thương thảo. Ví dụ, hầu hết các nhãn hàng/bán lẻ này đều yêu cầu kéo dài thời gian thanh toán hợp đồng từ mức 45 ngày – mức trung bình trước đại dịch – lên đến 90 ngày, 120 ngày hay thậm chí 180 ngày. Họ đồng thời yêu cầu nhà sản xuất giảm giá cho các đơn hàng đã được ký kết trước đó, một số trường hợp mức cắt giảm lên tới 30%, trong khi lợi nhuận của các nhà sản xuất thường chỉ ở mức 5-10%. Không chỉ dừng lại ở đó, theo báo cáo của Trung tâm Hiến pháp và Nhân quyền Châu Âu,  một số nhà bán lẻ trong đó có Arcadia, tập đoàn bán lẻ hàng đầu Anh, chủ nhân của nhãn hiệu Topshop còn vận dụng điều khoản quy định về các trường hợp bất khả kháng để tuyên bố với nhà sản xuất rằng: Arcadia có thể  “hủy bất kỳ đơn đặt hàng nào, ở bất kỳ giai đoạn nào”, áp dụng với “các đơn đặt hàng đang trong quá trình sản xuất và trong quá trình vận chuyển” đồng thời “không chịu trách nhiệm về chi phí của hàng hóa”. Cũng vẫn tập đoàn này, đầu tháng 4/2020, tuyên bố chỉ chấp nhận các đơn hàng đang được vận chuyển vào ngày 17/3 với điều kiện nhà sản xuất phải giảm giá 30% và hủy tất cả các đơn hàng còn lại, bao gồm cả những đơn mà quần áo đã được làm nhưng chưa kịp vận chuyển đi.

Chúng tôi đã có danh sách ngày càng nhiều các nhà bán lẻ đã liên lạc với nhà cung ứng và áp đặt những điều khoản thanh tóan mới. Điều ngạc nhiên là một số các nhà bán lẻ có tiềm lực tài chính rất hùng mạnh cũng đưa ra các điều khoản mới – đem đến gánh nặng không bình đẳng cho các nhà cung ứng đối tác – những người cũng đang xoay sở với vấn đề tiền nong trong bối cảnh khủng hoảng này – ông Dennis Cantalupo, CEO of Pulse Ratings được trích lời trong một bài báo ra ngày 4/5/2020 của tờ Retail Dive.

Topshop – một trong những nhãn hàng của Tập đoàn bán lẻ Arcadia của Anh trong nhiều năm nhưng vừa được ASOS mua lại vào tháng 2/2021. Ảnh AFP

Theo tạp chí Forbes số ra ngày 13/10/2020, tính đến tháng 9/2020, đã có ít nhất 1 triệu lao động ngành dệt may ở Bangladesh và 150,000 lao động ở Campuchia đã bị mất việc do ảnh hưởng của các món nợ mà các thương hiệu may mặc chưa trả cho nhà sản xuất. Trong khi có hàng triệu công nhân vẫn chưa được trả tiền cho những công việc họ đã làm trước khi đại dịch xảy ra. Bài báo cũng trích lời nhà hoạt động dệt may Bangladesh Kalpona Akter nói rằng “Đối với các nhãn hàng, đơn hàng là một sự mất mát về lợi nhuận nhưng đối với công nhân, đó là sự mất đi nguồn thực phẩm [nguồn sống]”

Trên thực tế, tình trạng tình trạng chèn ép của các nhãn hàng và nhà bán lẻ trong vai trò người mua hàng đối với các nhà sản xuất đã diễn ra trong nhiều năm gần đây và đại dịch COVID-19 đã làm trầm trọng thêm mối quan hệ vốn đã căng thẳng này.

Các nhãn hàng đưa ra rất nhiều yêu cầu với nhà sản xuất như giao hàng nhanh, hàng phải đảm bảo 100% chất lượng, tìm mọi cách để phạt và giảm tiền công của nhà sản xuất.

Theo một bài báo đăng trên tờ Ecocult ngày 11/1/2021, các nhãn hàng thường tìm cách phạt nhà sản xuất với bất cứ lý do khách quan hay chủ quan nào, yêu cầu nhà sản xuất phải đáp ứng ngày càng nhiều các tiêu chuẩn theo chính sách thương mại của họ nhưng vẫn duy trì việc trả họ mức tiền công rẻ mạt trong nhiều năm hoặc thậm chí còn giảm đi.

“Ngay cả trước đại dịch, các nhà sản xuất đã không kiếm đủ tiền để trả lương cho công nhân của họ một cách công bằng. Tại Bangladesh, tiền công mà các thương hiệu lớn cho các nhà cung cấp đã giảm 13% từ năm 2013 đến 2018. Tại Campuchia, trong khi mức lương tối thiểu hợp pháp tăng từ 100 USD lên 153 USD/ tháng trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2017 thì giá may mặc danh nghĩa được trả bởi các nhà bán lẻ châu Âu và Mỹ chủ yếu lại bị giảm đi trong cùng thời gian này” – bài báo viết và cho biết thêm rằng trong một báo cáo của Chiến dịch “Quần áo sạch”, không một nhãn hàng hoặc nhà bán lẻ nào trong số 108 thương hiệu mà họ kiểm tra đã mang đến cho tất cả nhân viên trong chuỗi cung ứng của họ một mức lương đủ sống.

“Nhiều nhãn hàng yêu cầu [nhà sản xuất] đảm bảo an sinh (hạnh phúc) cho người lao động mà giá gia công ngày càng rẻ, thời gian thanh toán thì kéo dài từ 40 ngày lên 90 ngày, 120 ngày thì chúng tôi lấy tiền đâu đảm bảo công nhân tôi được hạnh phúc?” – Ông Nguyễn Đình Trường, thành viên Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần may Việt Tiến trong một trao đổi với RFA.

Theo mạng lưới Dệt may bền vững khu vực Châu Á (STAR), đơn vị khởi xướng sáng kiến Thực hành mua hàng có trách nhiệm, sự bất bình đẳng giữa một bên là người mua hàng và một  bên là nhà sản xuất diễn ra từ nhiều năm nay đã trở nên trầm trọng thêm bởi đại dịch COVID-19, mức độ tổn thương của các nhà sản xuất dệt may đã quá rõ ràng nên đã đến lúc “họ phải có vai trò mạnh mẽ hơn trong việc đưa ra các tiêu chuẩn về thực hành mua hàng”. 

Star.png
Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS0 và 12 hiệp hội dệt may khu vực châu Á, Trung Đông và Bắc Phi tham gia sáng kiến của Mạng lưới STAR để yêu cầu các nhà bán lẻ và nhãn hàng thời trang thực hành mua hàng có trách nhiệm.

Trong thông cáo báo chí công bố sáng kiến thực hành mua hàng có trách nhiệm ngày 18/1/2021, ông Miran Ali, người phát ngôn của mạng lưới STAR cho biết mục tiêu của sáng kiến này là đưa các hiệp hội và các nhà sản xuất dệt may cùng ngồi lại, xác định và đồng ý về những ranh giới đỏ (giới hạn) của các điều khoản giao hàng và thanh toán, từ đó có được “một tiếng nói mạnh mẽ hơn” trong những thảo luận tập thể hoặc riêng rẽ với các nhãn hàng và nhà bán lẻ về việc cải thiện thực hành mua hàng. Thông cáo này cũng cho hay đặc điểm nổi bật của sáng kiến này là: Đưa ra những vấn đề về thực hành mua hàng “từ quan điểm của nhà sản xuất và hiệp hội đại diện cho họ”, vì vậy, sáng kiến này thực sự có xu hướng phản ánh tình hình thực tế từ dưới lên.

Những ranh giới đỏ

Theo mang lưới STAR, Sáng kiến thực hành mua hàng trách nhiệm dự kiến được thực hiện trong hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ tháng 1 đến hết tháng 3/2021 và giai đoạn 2 sẽ bắt đầu từ tháng 5/2021. Trong thông cáo mới nhất đăng ngày 1/4/2021, STAR thông báo trong giai đoạn 1, các hiệp hội thành viên đã hoàn thành xong một văn bản dự thảo gọi là “sách trắng” với các yêu cầu và khuyến nghị về thực hành giao hàng và thanh toán và dự kiến “sách trắng” sẽ được công bố trong cuối tháng 4 này sau khi có được bình luận của các bên liên quan.

Văn bản này sẽ góp phần thúc đẩy thực hành mua hàng mà không vượt qua ‘ranh giới đỏ’, nghĩa là chống lại việc lạm dụng quyền mua hàng gây thiệt hại rõ ràng và tránh được cho các nhà sản xuất” – thông cáo khẳng định.

Thông cáo cũng cho hay giai đoạn 2 của sáng kiến hướng tới việc xây phát triển các cách thức để tăng cường việc thực thi các điều khoản tuân thủ thương mại, trong đó có việc xây dựng một cơ chế trọng tài quốc tế để các nhà sản xuất có thể đưa ra khiếu nại với người mua hàng. Cũng trong giai đoạn 2 này, sáng kiến sẽ được đưa ra áp dụng tại các quốc gia thành viên đồng thời sẽ diễn ra các cuộc đối thoại về cải thiện thực hành mua hàng giữa các bên liên quan bao gồm các hiệp hội sản xuất hàng may mặc và các nhãn hàng, nhà bán lẻ và các tổ chức đại diện cho họ.

000_Hkg1781614.jpg
Công việc của công nhân dệt may tại một nhà máy ở Hà Nội. Ảnh: AFP

Mặc dù Sách Trắng này chưa được tuyên bố nhưng theo hãng thông tấn Reuters, bản tài liệu mà hãng này tiếp cận được tập trung vào 3 yêu cầu chính mà các hiệp hội đề ra. Một là: Yêu cầu các nhãn hàng và nhà bán lẻ phải thanh toán đơn hàng cho nhà sản xuất trong vòng 90 ngày, nếu thanh toán chậm trễ hơn sẽ phải trả thêm phí để chi trả lãi suất ngân hàng và mất lợi nhuận. Hai là: không chấp nhận yêu cầu hạ giá hàng của nhà bán lẻ/nhãn hàng sau khi đơn hàng đã được chốt. Ba là: Yêu cầu hạn chế sử dụng điều khoản ‘bất khả kháng’ – một điều khoản miễn chi phí và trách nhiệm pháp lý cho các nhãn hàng đối với các vấn đề ngoài khả năng kiểm soát của họ.

“Sau đại dịch, cần thiết lập lại hoàn toàn mối quan hệ giữa người mua và nhà cung cấp; chúng ta không nên quay trở lại tiêu chuẩn đã có” – ông Miran Ali, người phát ngôn của Mạng lưới STAR tại diễn đàn OECD ngày 3/2/2021

Sự tham gia của Việt Nam

Trao đổi với RFA, bà Hoàng Ngọc Ánh, Tổng Thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết Việt Nam là một trong những thành viên đầu tiên tham gia sáng kiến này để góp tiếng nói bảo vệ sự phát triển bền vững của ngành dệt may của Việt Nam và thế giới.  Bà cho rằng mặc dù sáng kiến này hiện tại không có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng với sự tham gia của 13 hiệp hội, nắm giữ 70% sản lượng may xuất khẩu của thế giới, đây sẽ là một tiếng nói mạnh mẽ đối trọng lại thói quen áp đặt và lấn lướt của các nhãn hàng.

“Mỗi một doanh nghiệp đơn lẻ khó có sức mạnh để nói điều gì với nhãn hàng. Nhãn hàng sẽ o ép từng khách hàng đơn lẻ nhưng với sức mạnh của hiệp hội và đặc biệt là liên minh các hiệp hội của các quốc gia thì yêu cầu và sức ép đối với nhãn hàng sẽ mạnh hơn” – bà Ánh khẳng định.

Thực hành mua hàng có trách nhiệm là yếu tố cơ bản để đảm bảo sự đối xử công bằng đối với người lao động ngành may mặc và tạo môi trường làm việc lành mạnh. Nhà cung cấp khó có thể trở thành người sử dụng lao động tốt nếu người mua không cam kết thực hành mua hàng có trách nhiệm – Ông Trần Như Tùng, Phó Tổng Giám đốc CTCP Dệt may – Đầu tư – Thương mại Thành Côn

Bà Ánh cho biết VITAS đã tiến hành thông tin tới các doanh nghiệp thành viên về sáng kiến này. Với sự hưởng hứng của các doanh nghiệp, Ủy ban phát triển bền vững của VITAS đã và đang tập hợp ý kiến đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam về bản “sách trắng” mà mạng lưới STAR và các hiệp hội vừa hoàn thành.

000_Hkg365657.jpg
Công nhân làm việc tại một nhà máy dệt may tại TPHCM. Ảnh AFP

Để tận dụng sức mạnh của sáng kiến này, bà khuyến khích các doanh nghiệp nên thu thập các chứng cứ bị chèn ép đề nhờ Hiệp hội VITAS và liên minh các hiệp hội lên tiếng giúp. Theo bà, khi bị chèn ép, doanh nghiệp thường e ngại, không dám lên tiếng vì sợ mất khách hàng. Vì vậy trong thời gian tới, khi doanh nghiệp có được chứng cứ về việc một số nhãn hàng chèn ép, VITAS sẽ thay mặt doanh nghiệp và các doanh Việt Nam có kiến nghị với nhãn hàng đó. Về mức độ hiệu quả, bà cho rằng tuy không tạo được sức ép về mặt pháp lý khiến nhãn hàng phải dịch chuyển ngay nhưng tiếng nói của hiệp hội và liên minh hiệp hội sẽ góp phần đưa những ứng xử “có vấn đề” của nhãn hàng ra trước ánh sáng của truyền thông và công luận.

“Sức mạnh của công tác truyền thông và cộng đồng mạng rất lớn. Nếu nhãn hàng nào không kiểm soát, đối xử với người lao động không bình đẳng hoặc đối xử với nhà máy đặt hàng không có trách nhiệm thì có thể chúng tôi sẽ sử dụng sức mạnh truyền thông để tuyên truyền cho người dân không sử dụng sản phẩm của nhãn hàng đó” – bà Ánh nói. Tuy nhiên bà cũng lưu ý rằng việc thực hiện cũng như hiệu quả của sáng kiến này không phải sẽ đến một sớm một chiều vì trong để đấu tranh có hiệu quả với một số nhãn hàng thiếu trách nhiệm cần có sự đồng lòng của các doanh nghiệp và các hiệp hội, đặc biệt trong bối cảnh cả các nhà sản xuất và các nhãn hàng đều đang gặp khó khăn do chịu ảnh hưởng của dịch bệnh COVID.

Năm 2020 là năm đầu tiên trong 25 năm qua ngành dệt may Việt Nam đã ghi nhận tăng trưởng âm. Kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 35,27 tỷ USD, giảm 9,29% so với năm 2019. Tuy nhiên đây cũng được xem là một nỗ lực lớn của ngành dệt may Việt Nam trong bối cảnh doanh thu dệt may toàn cầu giảm 25%.

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, người nhiều năm theo dõi ngành dệt may hoan nghênh việc Việt Nam tham gia sáng kiến thực hành mua hàng trách nhiệm để hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người lao động. Ông cũng cho rằng uy tín là tài sản vô giá của doanh nghiệp nên tuy sáng kiến không có tính ràng buộc pháp lý nhưng chắc chắn sẽ có những tác dụng nhất định trong việc đấu tranh với các nhãn hàng và nhà bán lẻ. Ngoài ra, ông cũng cho rằng bản thân nhà sản xuất Việt Nam cũng thể tự nâng cao vị thế của Việt Nam trên bàn đàm phán với khách hàng bằng cách đổi mới, nâng cao chất lượng hàng hóa và dịch vụ và uy tín của chính mình.

Giả cả, chất lượng hàng hóa là những yếu tố hết sức quan trọng và mang tính quyết định. Dù anh có nói hay như thế nào mà giá cả không hợp lý, mẫu mã không phù hợp thì cũng là vô nghĩa. Cố gắng làm sao nâng cao chất lượng, tạo ra được những sản phẩm mẫu mã mới, phù hợp với thị hiếu của từng thị trưởng để ký được những hợp đồng mới.”

Related posts