Hôm 15/12/2023, tờ Khmer Times đưa tin Thủ tướng Campuchia Hun Manet đã nói với Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính rằng kênh đào Funan Techo “sẽ chỉ chuyển nước từ sông Bassac, một nhánh của sông Mekong” và do đó, “không tác động đến dòng chảy và gây ảnh hưởng đến môi trường đối với Việt Nam.” Nhân dịp này, RFA phỏng vấn Bác sỹ Ngô Thế Vinh, một nhà nghiên cứu độc lập nổi tiếng về Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) và các vấn đề của sông Mekong.
RFA. Thưa BS. Ngô Thế Vinh, lập luận cho rằng sông Bassac không thuộc hệ thống Mekong và kênh đào Funan không lấy nước từ Mekong có đúng với thực tế không?
BS. Ngô Thế Vinh:
Gần đây Thủ tướng Campuchia Hun Manet cho rằng Kênh đào Funan không lấy nước từ sông Mekong mà chỉ lấy từ sông Bassac, một nhánh của sông Mekong. Đồng thời, phía Campuchia cũng cho biết kênh đào này sẽ được “dùng cho tưới tiêu, nông nghiệp.”
Phải nói ngay rằng đây là một câu nói thiếu thành thật. Thiếu kiến thức địa lý sơ đẳng mới có thể nói rằng sông Bassac – một trong hai phân lưu [distributary] lớn của sông Mekong mà không thuộc hệ thống sông Mekong, để từ đó lý luận rằng kênh đào Funan Techo chỉ lấy nước từ sông Bassac mà không lấy nước từ hệ thống sông Mekong.
Nếu hiểu Quatre-Bras [tiếng Khmer là Chamean Mon hay Chaktomuk / dịch sang tiếng Việt là chỉ nơi hội tụ của 4 nhánh sông] là gì, chúng ta có ngay câu trả lời phản bác lý luận nêu trên của Thủ tướng Hun Manet. Quatre Bras tiếng Pháp là 4 cánh tay – là 4 nhánh của hệ thống sông Mekong:
Mekong Thượng [Upper Mekong] là dòng chính sông Mekong chảy từ bắc xuống nam tới Phnom Penh là nhánh thứ nhất.
Con sông Tonle Sap là nhánh thứ hai, từ Biển Hồ chảy xuống kết nối với dòng chính Mekong Thượng; [sông Tonle Sap có đặc tính chảy 2 chiều theo mùa: Mùa Mưa thì dòng chảy ngược vào Biển Hồ và Mùa Khô nước từ Biển Hổ chảy xuôi dòng xuống ĐBSCL].
Tại Quatre Bras, nơi con sông Mekong Thượng chia làm hai phân lưu [distributaries]: Mekong Hạ [Lower Mekong] là nhánh thứ ba, và Sông Bassac là nhánh thứ tư; cả hai phân lưu lớn này khi chảy vào Đồng Bằng Sông Cửu Long của Việt Nam, mang tên khác là Sông Tiền (từ nhánh thứ ba) và Sông Hậu (từ nhánh thứ tư).
Như vậy, khi Con Kênh Funan Techo lấy nước từ con sông Bassac tức là lấy nước từ đầu nguồn của con sông Hậu thì sao lại bảo nguồn nước đó không thuộc hệ thống sông Mekong?
Quatre Bras / Nơi hội tụ 4 nhánh sông: (1) Mekong Thượng, (2) Sông Tonle Sap, (3) Mekong Hạ / có tên Sông Tiền (4) Sông Bassac / có tên là Sông Hậu khi chảy vào Việt Nam. Đường chỉ đỏ nối sông Bassac và tình Kep là sơ đồ của con kênh Funan Techo của Cam Bốt sẽ khởi công vào năm 2024 và hoàn tất năm 2028. [Bản đồ với ghi chú của BS. Ngô Thế Vinh]
RFA. Theo thông tin mới nhất từ phía Campuchia thì kênh đào Phù Nam không chỉ phục vụ giao thông thuỷ mà còn phục vụ tưới tiêu, nông nghiệp. Nếu điều đó xảy ra thì nó có thể ảnh hưởng tới sông Mekong và ĐBSCL ra sao?
BS. Ngô Thế Vinh
Một câu hỏi rất hay vì cùng lúc nêu ra được 2 vấn đề của con kênh đào Funan Techo.
Vấn đề thứ nhất, điều mà Chính phủ Phnom Penh nói ra trong Thông báo gửi Ủy hội Sông Mekong (MRC) 4 nước Mekong; khi nói về mục đích của Dự án Funan Techo chỉ vỏn vẹn có một câu: “Con kênh nội địa có mục đích vận tải và giao thông đường thủy”, với lợi ích rất rõ ràng: chặng đường sông nếu không phải qua ngả Việt Nam mà nay với con kênh Funan Techo khoảng cách được rút ngắn. Như vậy nó sẽ giảm thiểu thời gian di chuyển và bớt nhiên liệu tiêu thụ. Điều đó cũng có nghĩa nó là giảm đáng kể chi phí vận chuyển và quan trọng hơn nữa là tạo được một trục / hub giao thương mới mà không cần phải đi qua khúc sông Mekong của Việt Nam. Tất cả nhằm tăng tính cạnh tranh, thu hút thêm đầu tư, giảm thiểu chậm trễ và giảm chi phí về tiếp vận.
Vấn đề thứ hai, điều mà chính phủ Phnom Penh ban đầu không nói ra, muốn dấu nhẹm trong Thông báo gửi MRC 4 nước Mekong, đó là tính đa năng [multipurpose] của con kênh Funan Techo.
Ngoài mục đích giao thông đường thuỷ, con kênh Funan còn tiềm ẩn nhiều mục đích khác bao gồm: thuỷ lợi [irrigation] chuyển dòng lấy nước [water diversion] từ con kênh Funan giúp cho việc tiêu tưới mở rộng diện tích canh tác [agriculture], tạo những hồ nước nuôi trồng thủy sản [aquaculture], bảo đảm lương thực và cải thiện đời sống các cộng đồng cư dân trong vùng.
Nhìn xa hơn nữa qua các cuộc hội thảo của Diễn đàn Vận Tải và Hậu Cần 2023 [Transport and Logistics Forum 2023], người ta còn bàn tới sự gia tăng giá trị đất đai và bất động sản ven con kênh Funan, khi xây thêm được những giang cảng phụ [subordinate ports], tạo thêm công ăn việc làm, đồng thời với phát triển các khu gia cư, đô thị hoá cùng với nhu cầu cung cấp nguồn nước ngọt cho sinh hoạt.
Như vậy, với con kênh đào 180 km chiều dài ấy đâu có phải chỉ cho mục đích thuỷ vận, mà còn có những mục đích phát triển cả một vùng châu thổ 4 tỉnh từ Kandal, Takeo, Kampot, và Kep trước khi đổ ra Vịnh Thái Lan.
Và như vậy thì lưu lượng nước lấy từ hệ thống sông Mekong, nhất là từ con sông Bassac — khúc đầu nguồn của con sông Hậu, thì chắc chắn không phải chỉ 113 triệu mét khối mỗi năm mà sẽ nhiều lần lớn hơn và hậu quả thiếu nước nơi ĐBSCL phía dưới nguồn — nhất là vào mùa khô không thể nào lường trước được.
RFA. ĐBSCL đứng trước thực trạng biến đổi khí hậu, nước biển dâng (năm 2022, nước mặn vào tới khu vực thị xã Bến Tre), và dòng sông Cửu Long nghẽn mạch. Việc sông Mekong nghẽn mạch rõ ràng càng lúc càng khó giải quyết. Một mặt, Việt Nam cần thực thi những chiến lược ngắn hạn để điều hướng các bước đi của Trung Quốc và Cam Bốt sao cho nó công bằng hơn với ĐBSCL, nhưng mặt khác, theo ông Việt Nam có cần chuyển hướng chiến lược phát triển cho ĐBSCL hay không?
BS. Ngô Thế Vinh
Hâm nóng toàn cầu và biến đổi khí hậu là một thực trạng đã và đang ảnh hưởng trên toàn hệ sinh thái của khắp hành tinh này. Đặc biệt, các vùng châu thổ Deltas / trong đó có ĐBSCL là đang chịu ảnh hưởng nặng nề nhất:
Nước biển dâng khiến nạn ngập mặn càng ngày càng lấn sâu vào vùng châu thổ — không phải chỉ có ở các tỉnh ven duyên hải, mà là các tỉnh trong đất liền rất xa biển, do lượng mưa thấp ở thượng nguồn và ngay cả nơi ĐBSCL.
Nạn đất lún do khai thác quá mức các tầm nước ngầm đến [aquifers] mức cạn kiệt, với hơn một triệu giếng bơm hoạt động ngày đêm, lấy nước ngọt, không chỉ phục vụ tiện dụng gia cư mà cả cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp và kỹ nghệ, khiến vận tốc đất lún có nơi còn nhanh hơn mực nước biển dâng.
Với những con đập thuỷ điện khổng lồ bậc thềm [Mekong cascades] Vân Nam, và với chuỗi những con đập dòng chính ở Lào, do nguồn phù sa bị giữ lại trong các hồ chứa, nguồn nước ngọt đổ về ĐBSCL là nguồn nước đói [hungry water]. Điều đó dẫn đến thay vì ĐBSCL tiếp tục được phù sa bồi đắp như trước kia, thì nay bị sói mòn [erosion], tạo nên một tiến trình đảo ngược khiến cả một vùng châu thổ, về lâu về dài đang trên một tiến trình tan rã.
Do vận hành giữ nước của chuỗi đập thuỷ điện thượng nguồn, không có lực đẩy của nguồn nước ngọt đổ về, nạn ngập mặn có thể vào sâu tới 60km với nồng độ mặn cao tới 40/00 [bốn phần ngàn], có nơi còn cao hơn. Cùng một lúc phải ứng phó với thiếu nước ngọt, và canh tác trong tình trạng “chạy mặn”, khả năng thích nghi của người nông dân nơi ĐBSCL phải nói là rất cao, đây chính là yếu tố tích cực cho sự chuyển hướng phát triển của ĐBSCL.
Trước tình trạng Cửu Long ngày thêm Cạn Dòng, thiếu “nước ngọt”, thừa “nước mặn” – một vùng châu thổ bấy lâu được thiên nhiên ưu đãi đã không còn nữa. Việc chuyển hướng phát triển nơi ĐBSCL – không phải chỉ có thuần nông nghiệp, mà còn nhiều lãnh vực khác như nuôi trồng thuỷ sản, cả trên nhưng vùng nước lợ với hỗ trợ của công nghệ cao.
Đồng Bằng Sông Cửu Long đang trở thành một địa bàn đầy thách đố, lối làm ăn cũ manh mún chỉ có tập trung vào cây lúa [nông dân lam lũ này đêm mà vẫn không đủ ăn] không còn hợp thời nữa và nhu cầu một chuyển hướng phát triển phải là một mệnh lệnh của thời đại.
Và để trả lời “câu hỏi lớn” như vậy, tôi đề nghị RFA lập ra một Diễn đàn Mở [Open Forum] quy tụ nhiều tiếng nói của nhiều nguồn chất xám từ trong nước ra tới hải ngoại, và ban điều hợp Diễn Đàn ấy sẽ là nhóm Ký giả Môi Sinh của Đài RFA.
RFA xin cảm ơn BS. Ngô Thế Vinh đã giành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
BS Ngô Thế Vinh là tác giả 2 cuốn sách “Cửu Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng” [2000], và ký sự “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” [2007], liên quan tới vấn đề môi sinh và phát triển Lưu vực sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long.