Trong hai ngày 12 và 13 tháng 12 Chủ tịch kiêm Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình có chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam. Sự kiện này diễn ra chỉ hơn hai tháng sau chuyến công du của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đến Hà Nội để cùng nâng vượt cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện. Hai chuyến đến của hai cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới mang biểu tượng cao trong bối cảnh Trung- Mỹ cạnh tranh gay gắt. Việt Nam có vị trí địa chính trị quan trọng để cả hai cường quốc gây ảnh hưởng.
Câu hỏi đặt ra là liệu thế cân bằng mà Việt Nam cố giữ lâu nay có thể bị phá vỡ hay không. Câu trả lời là hiện tại Việt Nam có thể nhưng trong tương lai Hà nội phải “định vị” theo vào quỹ đạo phát triển của nhân loại.
Ba nội dung chủ yếu được khái quát dưới đây để suy xét trong bài viết này: (1) quan hệ Việt- Trung, lời nguyền láng giềng, (2) quan hệ Việt-Trung-Mỹ: tư tưởng thực dụng chính trị; (3) Việt nam định vị bản sắc riêng:thời cơ?
(1) Quan hệ Việt – Trung: lời nguyền ‘láng giềng’
Vô số lời bình luận từ các góc nhìn ‘Tây, Tàu, Việt’ khác nhau, nhưng quan hệ Việt – Trung bị ‘ràng buộc’ bởi ‘lời nguyền’ địa lý là yếu tố nặng ký ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam không chỉ ở hiện tại mà còn cả trong tương lai.
Quan hệ Việt-Trung, (tiếng Trung: 中越關係), được định nghĩa tổng quát là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng, có chung biên giới trên bộ và trên biển, có chung thể chế chính trị và có quá trình gắn bó tương tác sâu sắc về văn hóa và lịch sử, cũng như các cuộc xung đột qua lại. Quá trình này gồm hơn hai nghìn năm lịch sử bang giao kể từ Thế kỷ II trước Công nguyên đến nay, và có thể chia thành 4 thời kỳ cơ bản, trong đó 3 thời kỳ dài đầu có đặc điểm nổi bật, xuyên suốt lịch sử là Việt Nam xác lập và khẳng định chủ quyền như một quốc gia phong kiến tập quyền, liên quan chủ yếu tới Trung Quốc. Và, thời kỳ thứ 4, “thời đại Hồ Chí Minh”, khởi đầu từ 1945 đến nay và, bao gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến nay. Đặc trưng của thời kỳ này là việc xác lập chế độ chính trị bởi Đảng cộng sản (CS) gắn ngày càng mật thiết với bối cảnh trật tự thế giới biến động nhanh và phức tạp, trong đó cạnh tranh Trung – Mỹ đang là chủ đạo cho xu hướng phát triển chung toàn cầu.
Như vậy, về thể chế, cho đến nay tập quyền là đặc điểm chung của chế độ chính trị ở Việt Nam và biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu là tập quyền phong kiến và tập quyền đảng cộng sản. Trong chế độ này quyền lực tuyệt đối, lãnh tụ phải được tôn sùng, được duy trì bởi bộ máy quan lại khép kín, đặc quyền đặc lợi và phương thức cai trị bằng bạo lực được sử dụng phổ biến, nguy cơ thay đổi chế độ theo chu kỳ và thường xuất phát từ ‘cung đình’… Những đặc điểm trên xác định nguồn gốc của lời nguyền khi Trung Quốc luôn giành lợi thế, áp đảo trước Việt Nam như một cường quốc láng giềng. Ngoài ra, chịu sự tác động của yếu tố văn hoá truyền thống Á – Đông, lời nguyền thậm chí chứa đựng thuyết âm mưu, huyền bí và phục vụ cho mục đích cai trị.
Có thể nêu một vài sự kiện gần đây về ‘lời nguyền’, chẳng hạn “Mật ước Thành Đô” và mối liên hệ với “Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch.” Trong Bách khoa toàn thư wikipedia có ghi lại, rằng Hội nghị Thành Đô (hay gọi là Mật ước Thành Đô) là cuộc hội nghị thượng đỉnh Việt-Trung trong hai ngày 3-4 tháng 9 năm 1990, tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) giữa lãnh đạo cao cấp nhất hai Đảng Cộng sản của Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc. Cuộc họp mặt này nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng trước nguy cơ đổ vỡ của chế độ hoặc sự tấn công quân sự của phương Tây, mặc dù hai bên đã có xung đột trong thời gian dài trong cuộc chiến tranh Biên giới Việt Trung 1979 và ngoài khơi trong Hải chiến Trường Sa 1988.
Tuy nhiên, cho đến nay, nội dung và các thỏa thuận trong cuộc họp của đôi bên vẫn chưa được công bố, ngoài một vài chụp trong hội nghị mà Đảng CS Trung Quốc đã cho đăng chính thức. Đây là nguồn gốc của ‘tin đồn’ rằng “Trung Quốc đưa ra một điều kiện tiên quyết đó là Việt Nam… phải loại bỏ Bộ trưởng Thạch,” người được cho là có thái độ ‘gần’ phương Tây và ‘xa’ Trung Quốc khi cảnh báo về thời kỳ Bắc thuộc ‘mới.’ Những suy diễn kiểu như vậy, chẳng hạn, những cái chết ‘bí ẩn’ của lãnh đạo cấp cao nào đó trước những sự kiện chính trị quan trọng đã tạo ra ‘thuyết âm mưu’ về sự ảnh hưởng của Trung Quốc vào hậu trường chính trị của Việt Nam.
Cai trị thiếu công khai minh bạch cũng là nguồn gốc của sự bí ẩn, hơn thế’ mang tính huyền bí, ‘tâm linh.’ Chẳng hạn, một sự cố nửa thực nửa ảo, mang tên ‘bùa bát quái’ nhưng cũng vẫn nhằm phản ánh lời nguyền láng giềng đã có từ xa xưa nhưng còn để lại dấu tích đến ngày nay. Câu chuyện như sau: trong quá trình thi công dự án cải tạo sông Tô Lịch, Hà Nội vào đầu những năm 2000, ở đoạn qua phường Cống Vị Hà Nội, một máy xúc của đội thi công của Tổng công ty xây dựng VIC bị tai nạn chết công nhân do ‘sự cố’ sụt lún. Ở vị trí này dưới lòng sông, người ta tìm thấy có nhiều bộ xương người và xúc vật được chôn, sắp xếp theo hình bát giác…
Sự bí ẩn, tâm linh này được suy đoán rằng vị trí này là ‘long mạch’ của kinh thành Thăng Long và rằng đây là một kiểu bùa ngải ‘bát quái’ được trấn yểm bởi Cao Biền, tiếng Hoa phồn thể là 高駢,(821-887) đối với với ý đồ kìm hãm sự phát triển nước Việt. Hoà Thượng Thích Viên Thành (1950 – 2002), trụ trì chùa Hương, được mời đến để giải bùa và, sau đó, có lời đồn rằng vì lý do này ông đã ‘hao tổn sinh lực’, rồi mang bệnh mà ‘viên tịch’ vào năm 2002…
Những kiểu lời nguyền như trên có tác động không nhỏ đến phương châm ‘ứng xử’ của giới lãnh đạo Việt Nam với Trung Quốc. Theo truyền thống đó là ‘nhu đạo’, ‘trung đạo’, theo nghĩa tránh những ‘cực đoan’ trong chính sách và hành động, tuỳ theo tầm mức ‘biến cố’ trong từng giai đoạn lịch sử và, theo cách diễn tả hiên nay, là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” để giữ chủ quyền. Gần đây, có ‘dấu hiệu’ ít nhiều thay đổi trạng thái từ “đu dây” giữa Mỹ và Trung Quốc sang kiểu ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Người ta cố thể hiện biểu tượng, thậm chí bài trí “tre uốn rồng” cho bàn ghế, mặc dù ‘lộ liệu’, trong tiệc trà mà ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và tiếp ông Tập Cận Bình ngày 12/12/2023 tại Hà Nội. Và, mới đây, ngày 19/12 tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 giới lãnh đạo nhận định ngoại giao “cây tre Việt Nam” ngày càng được thừa nhận rộng rãi. Phát biểu tại hội nghị ông Trọng chỉ đạo rằng “ngoại giao phải luôn bình tĩnh, tỉnh táo nắm bắt thời cơ.” Dù nội hàm khái niệm ngoại giao được ví như “cây tre Việt Nam: gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”, nhưng ‘lời nguyền láng giềng’ vẫn ràng buộc mối quan hệ giữa hai nước, trong đó sự tương đồng về ý thức hệ CS đang tạo ra đặc thù quan hệ giữa hai Đảng CS, hai chế độ chính trị.
Trong Tuyên bố chung dài hơn 8100 từ tiếng Việt giữa hai nước Việt – Trung trong chuyến thăm nêu trên của ông Tập Cận Bình, trong đó nhấn mạnh những nội dung mà hai đảng CS quan tâm, đã và đang làm, cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam dù không muốn “chung vận mệnh”, nhưng vẫn phải “chia sẻ tương lai” với Trung Quốc. Một trong những nội dung được lưu ý rằng Bắc Kinh và Hà Nội đã đồng ý tăng cường hợp tác quốc phòng và an ninh, đặc biệt là về “an ninh chế độ và an ninh thể chế”. Đây là lần đầu tiên hai nước đề cập đến an ninh của chế độ trong một tuyên bố chung như vậy. Cụ thể, hai bên sẽ “tăng cường giao lưu tình báo và phối hợp chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác trong các vấn đề chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” của các thế lực thù địch, phản động”.
“Lời nguyền láng giềng” đeo đuổi vận mênh dân tộc nhưng, như một hệ quả, nó có thể thay đổi khi thời thế thay đổi. Liệu ‘thời cơ’ sẽ được nắm bắt khi tư tưởng thực dụng dần thống trị trong quan hệ Việt – Trung – Mỹ?
(còn nữa)
Phạm Quý Thọ
*Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do