Chính phủ Việt Nam cũng nhận thấy các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) không có động lực sáng tạo, “chưa chú trọng đầu tư các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Hoạt động đầu tư cũng mang tính đơn lẻ, chưa có sự liên kết để thực hiện dự án lớn.”
Mệnh lệnh yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tăng cường đầu tư để “cung tiền ra nền kinh tế” dường như nằm trong một chính sách “có tính chiến lược” phát triển doanh nghiệp nhà nước của Chính phủ Việt Nam.
Có 35 DNNN tỷ đô trong ba năm?
TS. Nguyễn Lê Tiến trao đổi với RFA về Nghị quyết Số: 68/NQ-CP năm 2022 của Chính phủ Việt Nam “về tiếp tục đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty trong phát triển kinh tế-xã hội”.
Nghị quyết ban hành năm 2022 này đặt ra mục tiêu đến năm 2025, nghĩa là chỉ trong vòng 3 năm, Việt Nam “có ít nhất 25 DNNN có vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán đạt trên một tỷ đô la Mỹ, trong đó có ít nhất 10 doanh nghiệp đạt mức trên 5 tỷ đô la Mỹ.”
Nếu có ít nhất 10 doanh nghiệp nhà nước đạt mức vốn chủ sở hữu, hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán, là 5 tỷ đô la Mỹ, thì tổng số vốn 10 doanh nghiệp này đạt được sẽ là 50 tỷ đô la. Và nếu có ít nhất 25 doanh nghiệp nhà nước đạt số vốn (chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán) đạt trên 1 tỷ đô la Mỹ thì tức là tổng số vốn của 25 công ty này sẽ là 25 tỷ đô la. Tổng cộng của cả 35 doanh nghiệp nói trên sẽ là 75 tỷ đô la Mỹ.
TS. Nguyễn Lê Tiến nhận xét rằng mục tiêu mà Chính phủ muốn doanh nghiệp nhà nước phải đạt được, như Nghị quyết này đặt ra, nếu làm theo nguyên tắc cạnh tranh sòng phẳng và công bằng trên thị trường, thì chỉ là vĩ cuồng. Còn nếu Việt Nam thực hiện mục tiêu này theo cách lâu nay vẫn làm thì sẽ đạt được mục tiêu, nhưng mục tiêu đó là có hại cho nền kinh tế.
Cách mà lâu nay Việt Nam vẫn làm sẽ là lấy tài sản công, như đất đai hoặc ngân sách, cung cấp vào các công ty này để tạo ra “vốn chủ sở hữu” lớn. Bằng cách làm đơn giản và có tính cơ học đó, họ có thể đạt được mục tiêu đề ra. Nhưng làm như vậy sẽ gây hại cho quốc gia. TS. Nguyễn Lê Tiến phân tích cụ thể hai cái hại có tính chiến lược của chính sách này:
Một mặt, nó chôn vùi nguồn lực quốc gia vào chỗ không thể tạo ra giá trị. Không chỉ riêng gì Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước ở bất kì đâu, một khi được bao cấp nguồn lực và độc chiếm một thị trường nào đó mà không phải cạnh tranh, cũng sẽ trở nên trì trệ và mất động lực phát triển. Chôn nguồn lực ít ỏi của quốc gia vào chỗ ấy, mất nguồn lực để đầu tư cho gốc rễ của sự phát triển là giáo dục, văn hoá, xã hội, Việt Nam sẽ chìm sâu hơi vào các loại bẫy kinh tế, chính trị, xã hội, kìm hãm cơ hội phát triển của dân tộc.
Mặt khác, DNNN chiếm dụng nguồn lực quốc gia và độc quyền thị trường sẽ khiến cho cơ hội dành cho khối doanh nghiệp tư nhân trở nên hẹp hơn. Không tích lũy đủ nguồn lực, và không có cơ hội (cả về thị trường, vốn và cơ chế chính sách) khối tư nhân sẽ chỉ loay hoay trong một số lĩnh vực không có tính chiến lược với sự phát triển quốc gia.
Nếu chúng ta giả định rằng nhà nước Việt Nam sẽ đặt ra cơ chế cạnh tranh công bằng cho các doanh nghiệp nhà nước này, mục tiêu mà Nghị quyết nói trên nêu ra là không tưởng. Doanh nghiệp nhà nước luôn kém hiệu quả, thiếu sáng tạo. Đây là nhược điểm chung ở khắp nơi trên thế giới,không cứ riêng gì ở các nước XHCN hay Việt Nam. Thực tế là phần lớn các DNNN đều kinh doanh lỗ lã, không xứng với số vốn và tài nguyên bỏ cho nó.
Ông Nguyễn Lê Tiến kết luận rằng doanh nghiệp nhà nước chỉ nên làm những gì tư nhân không thể, hay không muốn làm. Doanh nghiệp nhà nước luôn có nhà nước đứng sau, nếu tham gia cả vào những gì tư nhân làm, bằng nguồn lực quốc gia với “nước sông, công lính” và quyền lực nhà nước thì luôn bóp chết doanh nghiệp tư nhân. Ông nêu ra một nghị quyết khác của Chính phủ Việt Nam ban hành cuối tháng 3 năm 2023, “về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Nghị quyết số 45/NQ-CP), và đặt vấn đề:
“Chính phủ một mặt muốn ‘phát triển kinh tế tư nhân’, mặt kia lại đồng thời phát triển ‘những quả đấm thép’ nhà nước thì quả là mâu thuẫn!”
Lẫn lộn mục đích và kết quả
Trả lời câu hỏi của RFA về mục tiêu có 35 doanh nghiệp nhà nước “vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán” đạt trên 75 tỷ đô la Mỹ”, một cựu quan chức cấp cao của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) không muốn nêu tên, nhận xét: Vấn đề nằm ở chỗ “vốn chủ sở hữu hoặc vốn hóa trên thị trường chứng khoán đạt trên 1 tỷ đô la Mỹ hay trên 5 tỷ đô la Mỹ” không phải là mục tiêu, mà là kết quả tự nhiên đi đến sau khi đạt được mục tiêu. Ông giải thích rằng đối với các doanh nghiệp nhà nước, mục tiêu phải là lĩnh hội các thành tựu khoa học kĩ thuật mới, đổi mới sáng tạo, cho ra những sản phẩm phù hợp với thị trường và thành công về mặt thị trường. Khi đạt được những mục tiêu này, doanh nghiệp bước vào thị trường chứng khoán và được thị trường này chấp nhận, thì sẽ đạt kết quả về mặt tài chính.
Ví dụ, cùng là doanh nghiệp nhà nước, nhưng Viettel làm kinh doanh thành công, trong khi nhiều doanh nghiệp khác kém hiệu quả hoặc thua lỗ. Cái tạo ra sự khác biệt này là Viettel có chiến lược, có sản phẩm, có kế hoạch làm chủ công nghệ.
Việt Nam thường có thói quen tư duy là đặt ra các mục tiêu về mặt danh hiệu lên trước, và khi hành động thì nhắm đến các mục tiêu có tính hình thức này. Chúng ta thấy hiện tượng này khác phổ biến. Ví dụ trong lĩnh vực giáo dục đại học, người ta đặt ra mục tiêu vào được danh sách xếp hạng “100 trường đại học hàng đầu”. Làm như vậy, họ quên mất rằng vào được danh sách xếp hạng “100 trường đại học hàng đầu” chỉ là kết quả của một quá trình cố gắng cải cách bộ máy, tổ chức, đầu tư nguồn lực cho giảng dạy, nghiên cứu, phát triển môi trường học thuật… Nguyên quan chức cấp cao của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhấn mạnh: Khi đạt được những thành tựu này thì kết quả xếp hạng sẽ đến một cách tự nhiên, chứ vị trí trong bảng thứ hạng không phải là đích đến đầu tiên.