Tàu Trung Quốc vẫn liên tục xâm phạm
Thời gian vừa qua, các tàu Trung Quốc đã thực hiện xâm nhập bất hợp pháp vào các vùng biển thuộc EEZ của nhiều quốc gia, trong đó có Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Theo dữ liệu giám sát hải trình được công bố ngày 18/10, tàu khảo sát Da Yang Hao của Trung Quốc cuối cùng đã rời vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia, hai tuần sau khi Bộ Ngoại giao nước này triệu Đại sứ Trung Quốc để bày tỏ phản đối một cách cứng rắn (1). Trước đó đã xuất hiện các tin tức về hoạt động của các tàu Trung Quốc xung quanh quần đảo Natuna trên Biển Đông, đặc biệt là sự xuất hiện của tàu khu trục Côn Minh 172 (Kunming 172) trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Indonesia (2).
Bộ Ngoại giao Philippines vừa qua cũng đã phản đối mới đến Bắc Kinh liên quan việc Trung Quốc duy trì sự hiện diện của hơn 100 tàu thuyền của họ ở vùng lãnh hải mà Manila tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông (3).
COC trong hội nghị cấp cao ASEAN sắp tới
Hội nghị cấp cao của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) lần thứ 38 và các hội nghị cấp cao liên quan sẽ được tổ chức vào ngày 26-28/10 tại Brunei, sau đó là Hội nghị cấp cao Đông Á vào tháng 11/2021. Hiện tại, ASEAN có rất nhiều vấn đề phải giải quyết, trong đó có cuộc đối đầu Mỹ – Trung; Thái độ của ASEAN với AUKUS; Vấn đề Myanmar và COC.
Vào tháng tám năm nay, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị tiết lộ rằng các bên đã đạt được thỏa thuận đối với phần mở đầu của COC (4).
Vì các thỏa thuận của ASEAN đều bắt đầu với một tuyên bố chung về các nguyên tắc, nên điều này không báo hiệu đạt được tiến triển lớn. Tuy nhiên, ít nhất điều đó có nghĩa là hai bên giờ đây có thể ngồi lại để thảo luận về những chi tiết cơ bản và quan trọng nhất của COC.
Trong bài phát biểu tại Singapore vào cuối năm 2018, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã kêu gọi ký kết COC vào năm 2021 (5). Hầu hết các nước thành viên ASEAN coi thời hạn đơn phương này của Trung Quốc là không thực tế, hoặc như họ đã nói một cách lịch sự là “đầy tham vọng”. Trong bất kỳ trường hợp nào, COVID-19 đã phá vỡ mục tiêu 2021 của Trung Quốc.
Những cái mốc về COC được đưa ra phản ánh mong muốn của các bên, chứ chưa phải là dựa trên thực tế. Tất cả các bên đều cam kết sẽ tiến hành đàm phán COC từ khi họ ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002. Nhưng do sự chậm trễ của Trung Quốc, các cuộc đàm phán đã không được tiến hành cho đến năm 2014. Và Trung Quốc đã không có thái độ nghiêm túc về tiến trình này cho tới sau khi Tòa Trọng tài ra phán quyết vào năm 2016. Phán quyết khẳng định các tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh đối với “các quyền lịch sử” bên trong “đường chín đoạn” của nước này vốn bao trùm 80% diện tích biển Đông là không hợp lệ.
Bằng việc thể hiện sự nhiệt tình nhiều hơn đối với tiến trình COC, Bắc Kinh có thể chuyển hướng sự chú ý khỏi việc họ bác bỏ phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài và củng cố câu chuyện rằng Trung Quốc và ASEAN đang tích cực xử lý tranh chấp và không cần nước khác, đặc biệt là Mỹ, “can thiệp” và làm gia tăng căng thẳng bằng việc triển khai các tàu chiến đến khu vực này.
Tuy nhiên, cũng có một số bước tiến, dù không lớn. Tháng 8/2017, TQ và ASEAN cùng nhất trí về một khuôn khổ dài một trang để hướng dẫn các cuộc thảo luận trong tương lai. Một năm sau, họ ủng hộ Bản dự thảo đàm phán duy nhất (SDNT) dài 19 trang trong đó có nội dung đệ trình của mỗi bên trong hai bên về việc COC cần phải bao gồm những gì. Tháng 8/2019, họ đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên củng cố SDNT và bổ sung các đề xuất mới.
Bước tiếp theo là đàm phán về bản dự thảo thứ hai, nhưng do dịch bệnh, không cuộc gặp nào, dù là trực tiếp hay trực tuyến, được tổ chức trong cả năm 2020. Tuy nhiên, trong nửa đầu năm nay, các bên đã gạt sang một bên những lo ngại của mình về việc thảo luận những vấn đề nhạy cảm thông qua liên kết video và đã 6 lần gặp gỡ trực tuyến.
Những đồng thuận và bất đồng
Có sự đồng thuận rộng rãi giữa các bên rằng hòa bình và sự ổn định ở biển Đông nằm trong lợi ích của tất cả mọi người. Các bên cũng nhất trí về sự cần thiết phải duy trì an toàn hàng hải, an ninh và quyền tự do hàng hải phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Các bên đã nhất trí thúc đẩy hợp tác thực tế trong các lĩnh vực như bảo vệ và nghiên cứu khoa học môi trường biển, an toàn hàng hải, chống tội phạm xuyên quốc gia và bảo tồn nguồn sống.
Tuy nhiên, vẫn có những bất đồng nghiêm trọng trong các lĩnh vực khác. Điều quan trọng nhất là nỗ lực của Trung Quốc để các bên khác thừa nhận yêu sách quyền tài phán của mình bên trong “đường chín đoạn”. Ví dụ, Trung Quốc đã gợi ý rằng các dự án phát triển dầu khí ở biển Đông chỉ nên do các quốc gia ven biển thực hiện và loại trừ các công ty năng lượng bên ngoài khu vực. Điều này phù hợp với quan điểm từ lâu nay của Bắc Kinh rằng các bên tuyên bố chủ quyền ở Đông Nam Á nên cùng với Trung Quốc khai thác các nguồn năng lượng ở các khu vực tranh chấp.
Vấn đề là “các khu vực tranh chấp” mà Trung Quốc đề cập bao gồm cả Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của một số nước Đông Nam Á cũng tuyên bố chủ quyền và hợp pháp theo UNCLOS. Tòa Trọng tài đã bác bỏ các yêu sách “đường 9 đoạn” của Trung Quốc trong EEZ của các quốc gia ven biển. Ngoài ra, Trung Quốc cũng không muốn các nước Đông Nam Á tiến hành tập trận quân sự ở biển Đông với lực lượng hải quân các nước bên ngoài khu vực.
Hầu hết các nước thành viên ASEAN đều phản đối những điều khoản này, và trong phần diễn giải đầu tiên, các nước đều nhấn mạnh quyền hàng hải của họ theo UNCLOS, trong đó có quyền tiến hành các hoạt động với các quốc gia hay các công ty nước ngoài.
Một lĩnh vực gây bất đồng khác là hình thức các hoạt động mà COC cần cấm. Việt Nam muốn các bên thực hiện “tự kiềm chế” bằng việc không xây dựng các đảo nhân tạo, không quân sự hóa các đảo san hô mà họ chiếm giữ bằng việc triển khai vũ khí tấn công, không quấy rối ngư dân, các công ty dầu khí và tàu tiếp tế binh lính, và không tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ). Không phải là ngẫu nhiên, những yêu cầu này chính là các hành động mà Trung Quốc sử dụng để thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền.
Việt Nam cũng muốn Bộ quy tắc ứng xử được áp dụng cho tất cả các cấu trúc địa hình có tranh chấp ở biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm giữ năm 1974 nhưng Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền. Bắc Kinh không công nhận có tranh chấp với Hà Nội đối với quần đảo này. Những bất đồng này khiến cho tiến trình COC vẫn khó có thể đạt được đồng thuận trong tương lai.
Thêm nữa, một số quốc gia như Lào, Campuchia đã đứng về phía bảo vệ các lợi ích của Trung Quốc trong quá trình đàm phán COC. Năm 2022, Campuchia sẽ trở thành Chủ tịch luân phiên của ASEAN, điều này dự báo những khó khăn cho đàm phán COC trong thời gian sắp tới. Giả định là Trung Quốc muốn ký kết COC trong Hội nghị cấp cao ASEAN-Trung Quốc hàng năm vào tháng 11/2022, thì việc hoàn tất các cuộc đàm phán trong vòng 14 tháng tới là nhiệm vụ “bất khả thi”. Với tư cách là Chủ tịch ASEAN, Campuchia sẽ phải có ảnh hưởng nào đó đối với chương trình nghị sự, nhưng Phnom Penh sẽ không thể vội vàng thông qua một COC “thân thiện” với Trung Quốc. 11 bên sẽ cần đạt được sự đồng thuận đối với các vấn đề phức tạp và gây tranh cãi được nêu ở trên. Và hãy nhớ rằng họ đã mất 7 năm chỉ để nêu lên những gì họ muốn được đưa vào COC – và trong các phần tiếp theo của Bộ quy tắc, những thương lượng cứng rắn mới thực sự bắt đầu.
ASEAN cần làm gì?
Các nước ASEAN, đặc biệt là năm quốc gia ven biển, cần phải đấu tranh để đảm bảo rằng COC chắc chắn duy trì các quyền và quyền lợi trên biển của họ đã được ghi trong UNCLOS và ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài. Trung Quốc có thể “nói đãi bôi” về UNCLOS, nhưng mục tiêu của Bắc Kinh là vô hiệu hóa Phán quyết năm 2016 và thúc đẩy tuyên bố chủ quyền “đường chín đoạn”. Bắc Kinh sẽ kịch liệt phản đối danh sách những điều cấm của Việt Nam và nỗ lực của Hà Nội đưa vấn đề quần đảo Hoàng Sa vào đó. Những thuật ngữ sẽ cần được xác định, bao gồm “quân sự hóa”, “tự kiềm chế” và “các cấu trúc địa hình liên quan ở biển Đông”. Việc quyết định xem liệu Bộ quy tắc có sẽ ràng buộc về mặt pháp lý hay không cũng có thể làm kéo dài các cuộc đàm phán. Điều quan trọng là vấn đề này sẽ quyết định tiến trình các cuộc đàm phán, vì các quan chức từ tất cả các bên chắc chắn sẽ đàm phán với tinh thần kiên trì hơn nếu quốc gia của họ bị ràng buộc về mặt pháp lý bởi kết quả cuối cùng. Điều đó có nghĩa là mỗi từ và mỗi điều khoản sẽ được phân tích kỹ càng và được tranh luận. Vì những lý do này, khó có khả năng COC sẽ được ký kết vào cuối năm 2022.
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.