Phải làm gì với “tự do tránh ngôn luận”

Một cuộc khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Pew về ý kiến của những người theo Phật giáo và Hồi giáo ở Nam và Đông Nam Á đã mang lại những kết quả làm thất vọng những ai trong chúng ta vốn nâng niu tự do ngôn luận. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng sẽ là sai lầm nếu nghĩ rẳng kẻ thù duy nhất của tự do ngôn luận là những chính phủ độc tài trong khu vực.

Những người tham gia khảo sát từ bốn quốc gia Đông Nam Á được yêu cầu chọn giữa hai phát ngôn: “Người dân cần được nói lên ý kiến của mình một cách công khai cho dù những ý kiến này làm những người khác không vui hoặc thất vọng” và “sự hòa hợp với những người khác quan trọng hơn quyền nói ra ý kiến của mình”.

Khoảng 2/3 số người trả lời – 69% ở Campuchia, 67% ở Indonesia và 64% ở Singapore – đã chọn sự hòa hợp thay vì tự do ngôn luận. Thú vị là, có 59% người tham gia khảo sát ở Thái Lan chọn theo hướng ngược lại.

Mặc dù không dễ dàng nhưng việc phê phán các chính phủ về việc họ đàn áp tự do ngôn luận sẽ trực diện hơn là tranh luận chống lại những tuyên bố phổ biến cho rằng tự do ngôn luận là một ảo tưởng hoặc các nền dân chủ cũng kiểm duyệt như các quốc gia độc tài.

Điều khó hiểu hơn và nguy hiểm hơn nếu không bác bỏ, đó là sự gợi ý rằng tự do ngôn luận là điều không được mong muốn và sự trung thực là một loại hành vi chống lại xã hội. Thực sự, giống như nói rằng bạn nên giữ  im lặng cho dù bạn biết bạn sẽ nói sự thực. Nhưng đó là điều mà người ta phải đối mặt ở Đông Nam Á, khảo sát của Pew cho hay.

2b.jpeg
Một người đàn ông Thái Lan cầu nguyện dưới mưa trong một buổi cầu nguyện của tất các tôn giáo cho hòa bình và hòa hợp tại công viên Lumpini, Bangkok năm 2010. Hàng ngàn cư dân đã tập trung vào lúc bình minh để cầu nguyện cho hòa bình tại các địa điểm trên khắp Bangkok, nơi người dân thiệt mạng và các tòa nhà cao tầng bị đốt cháy trong hai tháng bạo lực chính trị. Ảnh: Manish Swarup/AP

Tôi dùng từ “khó hơn” vì người ta chắc chắn nhận ra rằng không chỉ các chính phủ muốn chặn họng các bạn mà cả những người hàng xóm của bạn cũng vậy. Không điều gì trong hai điều này là dễ nghe. Đơn giản hơn nhiều khi nghĩ rằng tất cả sự chuyên quyền có nguồn gốc từ những người lãnh đạo, một phần bởi vì người ta phải hòa nhập vào trong xã hội với những người suy nghĩ khác mình và đồng thời bởi vì nó mang đến một cái cớ tiện lợi cho việc không hành động.  

Tuy nhiên, đây không phải là một điều mới mẻ. Năm 2015, Pew đã có một khảo sát toàn cầu về thái độ của người dân đối với tự do ngôn luận. Chỉ có 29% người dân Indonesia tham gia khảo sát, nghĩ rằng người ta nên nói những gì họ muốn mà không cần kiểm duyệt và chỉ 21% cho rằng việc sử dụng internet không có kiểm duyệt là quan trọng/cần thiết.

Tự do ngôn luận có nghĩa lý gì nếu người ta chỉ được phép nói điều gì đó không gây tranh cãi hoặc những gì mọi người khác đã (dường như) nghĩ đến? Đó không phải là tự do ngôn luận; Đó là sự lặp lại. Và sự lặp lại không làm người khác thay đổi ý kiến cũng như không giúp họ hiểu biết hơn.

Vì sao không gắn chặt với những suy nghĩ khi bạn 16 tuổi và không bao giờ thay đổi? Nhưng để được phép đặt câu hỏi về những ý tưởng đã thành hình của bạn, nâng cao hiểu biết cho bản thân, bạn phải hiện diện cùng với những thông tin không làm cho bạn thoải mái, theo cách không thoải mái. Ít người vui vẻ khi bị nói rằng họ đã sai và rằng họ đã sai trong nhiều năm.

Tôi dùng từ “được phép” bởi vì điều đó là cốt lõi của tự do ngôn luận. Người ta thường cho rằng nạn nhân thực sự của sự kiểm  duyệt là người nói. Họ là nạn nhân và tất cả những người khác cũng vậy. Nếu những suy nghĩ của bạn bị kiểm duyệt, vậy tôi không thể nghe thấy chúng. Nếu những suy nghĩ của tôi bị kiểm duyệt, bạn sẽ không thể nghe được những suy nghĩ của tôi và đánh giá, so sánh chúng với những suy nghĩ của bạn. Như vậy, sự kiểm duyệt biến mỗi người chúng ta trở thành một tù nhân của những suy nghĩ của riêng họ và khiến xã hội trở thành những cái hầm chứa trống rỗng.

Thực thi ý chí của đa số

Tôi không chỉ trích Đông Nam Á một cách không công bằng. “Tự do tránh ngôn luận” là mong muốn phổ quát. Thật vậy, mong muốn có một “cuộc sống yên lành”, được bảo vệ khỏi những sự thật khó chịu, tồn tại khá nhiều trong ý thức của người phương Tây, và xu hướng này ngày càng gia tăng.

Đó là đặc tính xác định của chủ nghĩa toàn trị – một khái niệm phương Tây – và của hầu hết các tôn giáo. Chẳng phải nguyên lý sáng lập của Kitô giáo, đạo Do Thái và đạo Hồi là Adam đã xấu xa vì đã từ bỏ “sự hòa hợp” của vườn địa đàng Eden để có một cuộc sống tự do, và tất cả chúng ta, những hậu duệ rõ ràng vẫn đang bị trừng phạt vì “tội lỗi” đó?

Người ta thường nói rằng sự kiểm duyệt bắt nguồn từ nhu cầu bảo  vệ những nhóm thiểu  số. It nhất, đó là cách “hòa hợp” xã hội thường được định nghĩa ở Singapore, Malaysia và Indonesia, các quốc gia đa sắc tộc với các hệ thống chính trị chia rẽ về sắc tộc và tôn giáo.

Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác những gì người ta tìm thấy trong thực tế là kiểm duyệt được sử dụng để thực thi ý chí của đa số đối với thiểu số. Tệ hơn nữa, điều này trở thành sự khẳng định rằng: Sự hòa hợp chỉ có thể được bảo vệ bằng cách truy tố thiểu số để đa số không tham gia vào bạo lực.

3b.jpeg
Cảnh sát trưởng Khalid Abu Bakar của Malaysia cảnh cáo báo giới: “Đừng làm bất cứ điều gì hoặc xuất bản tranh vẽ hoặc văn bản có thể gây bực tức trong cộng đồng”. Ảnh: Alexandra Radu/AP file photo

Có rất nhiều ví dụ về điều này. Một ví dụ ít người biết đến là vào đầu năm 2017, một tờ nhật báo nhỏ viết bằng tiếng Trung ở Malaysia đã đăng một bức biếm họa về Chủ tịch Đảng Hồi giáo Malaysia (PAS) – một bức tranh được một số người xem là chống Hồi giáo.

Ngay sau khi bức biếm họa được đăng tải, dành cho một lượng độc giả nhỏ chủ yếu là người Hoa, một ủy viên của PAS đã cảnh cáo tờ báo đừng quên những gì đã xảy ra đối với những nhà báo của tờ Charlie Hedo –  một vụ việc trong đó 12 nhà báo đã bị sát hại tại văn phòng của tờ báo tiếng Pháp này ở Paris hai năm trước đó.

“Nếu các ngài còn nhớ, lần trước, một tờ báo Pháp đã đăng một bức biếm họa làm tức giận cả thế giới Hồi giáo” – ông Muhammad Fauzi Yusof nói và thêm rằng tờ báo sẽ phải chịu trách nhiệm về những hậu quả “tàn khốc”.

Cảnh sát trưởng lúc đó là Khalid Abu Bakar đã tham gia vào cuộc tranh luận. “Đừng làm bất cứ điều gì hoặc xuất bản tranh vẽ hoặc văn bản có thể gây bực tức trong cộng đồng. Chúng ta phải cẩn thận với những điều này” – ông chỉ đạo các tờ báo và nhà báo.

Chúng ta rút ra điều gì từ vụ việc này? Rõ ràng, không phải tờ báo tiếng Trung đại diện cho thiểu số, dọa dùng bạo lực mà là nhà chính trị gia, thuộc đa số, đã nói với các nhà báo rằng họ có thể bị sát hại đồng loạt.

Và viên cảnh sát trưởng thì sao? Ông ấy đã không bắt nhà chính trị gia vì phát ngôn mang tính đe dọa sát hại tập thể. Thay vì thế, ông ta lại yêu cầu các nhà báo kiềm chế không làm tức giận những người khác – những người thuộc về đa số ở Malaysia. Vậy ai đã được bảo vệ? Khá rõ là đó là người đã dọa sử dụng bạo lực.

Bảo vệ kẻ dọa nạt

Ở Campuchia, đảng cầm quyền trong nhiều thập kỷ đã nói với công chúng khá rõ ràng rằng nếu họ mất quyền lực, đất nước sẽ nhanh chóng rơi vào tình trạng man rợ và hỗn loạn của thời Khmer Đỏ trong những năm 1970.

Lưu ý rằng những người mong muốn lấy chiếc ghế của Đảng Nhân dân Campuchia muốn làm điều này một cách ôn hòa và dân chủ. Dẫu vậy, lời cảnh báo của đảng cầm quyền thực ra là một sự đe dọa.

Nếu, Đảng này nói, chúng ta mất quyền lãnh đạo bằng một cuộc bỏ phiếu, chúng ta sẽ là những người mang bạo lực đến với đất nước. Câu hỏi đặt ra là lời cảnh báo này được công chúng Campuchia tin tưởng, chấp nhận ở mức độ nào? Sự “hòa hợp” mà những người Campuchia tham gia khảo sát của Pew đề cập tới có lẽ bao gồm sự tin tưởng này.

Một thực tế không thể trốn tránh khác là những chủ đề cấm kỵ và vượt quá giới hạn ở Đông Nam Á – những thứ ẩn  dưới nhu cầu về “sự hòa hợp” – có xu hướng là những vấn đề vô cùng quan trọng.

Ví dụ, vai trò của chế độ quân chủ Thái Lan, pháo đài rõ ràng của bản sắc Thái. Người Indonesia và Malaysia có nhiều khả năng phản đối những phát ngôn được coi là xúc phạm đến niềm tin tôn giáo hơn nhiều người nước khác, chẳng hạn như người Philippines và Việt Nam, theo khảo sát năm 2015 của Pew.

4b.jpeg
Những người ủng hộ Đảng Nhân dân Campuchia tập hợp tại Phnom Penh, ngày 21/7/2023. Đảng cầm quyền này cảnh báo rằng đất nước sẽ rơi trở lại vào tình trạng man rợ và hỗn loạn của thời Khmer Đỏ nếu Đảng này không nắm quyền. Ảnh: Heng Sinith / AP

Mặt khác, chỉ có 61% người Việt Nam nghĩ rằng người dân cần được đưa ra những bình luận công khai chỉ trính các chính sách của chính phủ trong khi con số này ở Indonesia là 73% và ở Malaysia là 63%.

Tất nhiên đây là cách tiếp cận từ trên xuống nhưng nó cũng cho thấy thực tế rằng rất nhiều người ở những nước này, có lẽ một cách vô thức, tán thành cùng một nguyên tắc rằng những chủ đề này vượt quá giới hạn và thực sự là những mối đe dọa cho sự hòa hợp.

Tựu trung là chính phủ các nước làm luật và các chính phủ độc tài đưa ra luật pháp hà khắc. Nhưng liệu chúng có được thực thi hay không và cảnh sát hành xử như thế nào phụ thuộc vào cách nhìn nhận chung trong nước. Ở Campuchia và Việt Nam, việc đỗ xe trên hầu hết các vỉa hè là bất hợp pháp nhưng vì mọi người đã làm điều này trong nhiều thập kỷ và không ai thực sự làm to chuyện nên cảnh sát hiếm khi thực thi luật.

Nếu có đủ số lượng người quan tâm tới tự do ngôn luận thì sẽ có nhiều hơn tự do ngôn luận, thậm chí ngay cả khi luật pháp không cho phép. Tuy nhiên, sẽ đơn giản hơn nhiều khi giả định vấn đề duy nhất nằm ở những nhà độc tài.

*David Hutt là một nhà nghiên cứu tại Central European Institute of Asian Studies (CEIAS) và người phụ trách Chuyên mục Đông Nam Á của tờ Diplomat. Là một nhà báo, ông viết về chính trị Đông Nam Á từ năm 2014. Các quan điểm thể hiện ở đây là của riêng ông và không phản ánh quan điểm của RFA.

Related posts