Đã có rất nhiều cuộc tranh luận gay gắt về các tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Tuy nhiên, một số nhà phân tích chỉ xem xét các tranh chấp Biển Đông ở khía cạnh địa chiến lược và kinh tế mà bỏ qua một khía cạnh quan trọng có thể sẽ định đoạt tương lai của khu vực Biển Đông và cả nền chính trị Đông Nam Á nói chung: đó là vai trò của chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa dân túy trong cuộc xung đột này.
Đây là nội dung bài viết với tiêu đề tạm dịch là “Việt Nam và Trung Quốc: Hàng xóm đối lập bị tắc trong chủ nghĩa dân tộc và ký ức dân tộc” (Vietnam and China: Conflicting neighbors stuck in nationalism and memory), được đăng trên tạp chí The Harvard International Review (HIR) vào ngày 3/5/2023.
Chủ nghĩa dân tộc – tiềm lực và rủi ro
Theo đó, một trong những yếu tố quan trọng nhất trong cuộc xung đột trên Biển Đông đó là việc các quốc gia tuyên bố chủ quyền đều nhấn mạnh vào chủ nghĩa dân tộc.
Điều này đã được chứng minh bằng hai trường hợp rõ ràng và cụ thể nhất trong khu vực biển Đông là Việt Nam và Trung Quốc. Đây là những quốc gia độc tài, do bộ máy Cộng sản cứng rắn cầm quyền nên cần dùng chủ nghĩa dân tộc như một công cụ hợp pháp để tiếp tục kiểm soát xã hội.
Theo tiến sỹ Hồng Hải, lịch sử Việt Nam trải qua hàng ngàn năm gắn liền với tinh thần chống ngoại xâm, đặc biệt là giặc phương Bắc là Trung Quốc. Cho nên, chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam thể hiện tinh thần yêu nước, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, từ xa xưa cho đến tận bây giờ:
“Trên thực tế thì chúng ta vẫn tiếp tục đấu tranh để giành lại chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và một số đảo ở quần đảo Trường Sa do Trung Quốc chiếm đóng trái phép của Việt Nam.”
Nhưng nếu chủ nghĩa dân tộc không kiểm soát tốt thì nó sẽ bùng phát và trở thành bạo động. Điều đó có hại đến sự phát triển và quan hệ ngoại giao của Việt Nam, tiến sỹ Hồng Hải cho biết thêm.
Một chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, yêu cầu được giấu danh tính cho rằng nếu tinh thần yêu nước được phát huy một cách đúng mực thì rất tốt đối với một nước nhỏ như Việt Nam:
“Bởi vì, nói cho cùng Việt Nam là một đất nước nhỏ, nằm sát nách và yếu hơn Trung Quốc về nhiều mặt. Cho nên, nếu có sức mạnh đoàn kết của dân tộc thì đó là vũ khí tốt nhất của Việt Nam để chống lại mối đe doạ từ Trung Quốc.”
Tuy nhiên, ranh giới giữa tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc cực đoan là rất mong manh. Ông lấy lấy ví dụ cụ thể:
“Ví dụ như là có nhiều người nói rằng toàn bộ quần đảo Trường Sa rồi rất nhiều khu vực ở Biển Đông là của Việt Nam hết thì điều này cho thấy chủ nghĩa dân tộc hơi quá. Chúng ta cũng phải chấp nhận thỏa hiệp với một số quốc gia Đông Nam Á, để từ đó chống lại một kẻ thù mạnh hơn là Trung Quốc.”
Tháng 12/2007, lần đầu tiên sau năm 1975, một số cuộc biểu tình ôn hoà diễn ra ở cả TPHCM và Hà Nội nhằm phản đối Trung Quốc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa ở quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa vào tháng 11/2007.
Kể từ đó, hầu hết các cuộc biểu tình lớn nổ ra ở Việt Nam đều có dính dáng đến yếu tố Trung Quốc.
Điển hình như làn sóng biểu tình năm 2011, hàng trăm người ở TPHCM và Hà Nội xuống đường phản đối việc tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam tại khu vực Biển Đông; Năm 2014, người dân lại biểu tình vì Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam; Hồi năm 2018, người dân ở một số tỉnh thành phía Nam phản đối Dự luật Đặc khu cho Trung Quốc thuê đất 99 năm.
Chủ nghĩa dân tộc – công cụ đối phó Trung Quốc?
Nội dung bài viết trên HIR cho biết, Việt Nam đang thực hiện chiến lược “vừa hợp tác vừa đấu tranh” với Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam phải kiềm chế sự bày tỏ công khai tinh thần bài Trung của người dân để duy trì mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, lãnh đạo Việt Nam cũng biết tận dụng cảm xúc của công chúng khi cần thiết.
Theo tiến sỹ Hồng Hải, trong tiềm thức và trong máu của người dân Việt Nam đã có tinh thần chống ngoại xâm và chống Trung Quốc. Do đó, dù nhà nước có kích động hay không thì bản thân mỗi người dân khi xuống đường cũng đã mang đầy tinh thần dân tộc:
“Tôi cho rằng một chính thể nào cũng vậy thôi, trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đều phải dựa vào dân, không thể nói trong vấn đề bảo vệ chủ quyền mà không cần đến người dân được.”
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia nghiên cứu chính trị Việt Nam, nhận định chính quyền Việt Nam sẽ khơi dậy chủ nghĩa dân tộc trong một số trường hợp, ví dụ như ủng hộ đảng Cộng sản Việt Nam hay trong các đấu trường thể thao…
Ngược lại, lãnh đạo Việt Nam không thích chủ nghĩa dân tộc độc lập vì nó có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Cụ thể là các cuộc biểu tình ôn hoà phản đối gian khoan HD981 trở thành các vụ bạo động, tấn công các công ty Trung Quốc ở Bình Dương, Đồng Nai… hồi năm 2014.
Chuyên gia Biển Đông giấu tên đánh giá, tuỳ từng sự việc mà chính quyền Việt Nam có kích động chủ nghĩa dân tộc trong dân chúng hay không.
Theo ông, chính quyền Việt Nam đã ngầm “bật đèn xanh” cho các cuộc biểu tình chống Trung Quốc hồi năm 2014, dẫn đến việc mất kiểm soát để xảy ra các vụ bạo động. Từ đó cho đến nay, Việt Nam không muốn khơi dậy chủ nghĩa dân tộc để đối phó với Trung Quốc nữa. Bằng chứng là gần đây, báo chí nhà nước đều im lặng trước sự kiện tàu Hướng Dương Hồng xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam:
“Đối với Việt Nam thì vấn đề chủ quyền thiêng liêng lắm. Sức mạnh của người dân khiến cho chính quyền Việt Nam bắt buộc phải lên tiếng phản đối Trung Quốc, chứ không phải là chính quyền muốn kích động chủ nghĩa dân tộc lên đâu, thậm chí họ còn phải kiềm chế bớt đi nữa.”
Chủ nghĩa dân tộc khiến xung đột gia tăng
Đối lập với Việt Nam, chuyên gia Biển Đông giấu tên cho biết chính quyền Trung Quốc mới là bên lợi dụng chủ nghĩa dân tộc một cách cực đoan để tuyên truyền về chủ quyền Biển Đông:
“Trung Quốc đang thúc đẩy một kế hoạch có tên gọi là “Giấc mộng Trung Hoa”. Nhưng Trung Quốc có rất nhiều vấn đề khó khăn nội bộ, như dân số già, kinh tế suy giảm…
Cách mà Trung Quốc thực hiện là kích động chủ nghĩa dân tộc hướng sự chú ý của dân chúng về vấn đề Biển Đông, nhằm khỏa lấp được những khó khăn trong nước.”
Tạp chí HIR nói rằng ở Trung Quốc, chủ nghĩa dân tộc đang có chiều hướng gia tăng.
Trên các nền tảng mạng xã hội của Trung Quốc như Weibo, nhiều người Trung Quốc đã sử dụng các biệt danh mang tính chât phân biệt chủng tộc đối với người Việt. Đồng thời khi nhắc lại lịch sử, họ thường nói về “sự hy sinh về quân sự của Trung Quốc dành cho Việt Nam” và trước đây từng Việt Nam là một “nước chư hầu” của Trung Quốc.
Dù vậy, niềm tự hào quá khích này của người dân Trung Quốc cũng không thể châm ngòi cho cuộc biểu tình trên đường phố.
Điều này dẫn đến một số quan điểm cho rằng không phải chủ nghĩa dân tộc của người dân, mà chính những toan tính về chiến lược gia tăng kiểm soát Biển Đông mới là động cơ chính dẫn đến các hành động hung hăng của Trung Quốc ở vùng biển này. Bởi vì, chính quyền Trung Quốc không công khai các hành động bắt nạt trên Biển Đông, mà cũng không cần đến sự ủng hộ bằng tinh thần dân tộc của người dân khi thực hiện những hành động đó.
Việc các chính quyền trong khu vực sử dụng chủ nghĩa dân tộc làm tăng nguy cơ của cuộc xung đột Biển Đông, có thể nói chắc chắn rằng cuộc tranh chấp này sẽ còn căng thẳng hơn nữa trong tương lai – bài viết trên HIR kết luận.