Trong chuyến thăm lịch sử cấp nhà nước tới Hà Nội, Tổng thống Biden đã cùng với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, tăng cường sức mạnh và động lực cho quan hệ Mỹ-Việt trong bối cảnh hai nước phối hợp để đạt được mục tiêu chung là hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững.
Tổng thống Biden đã phát biểu trong khi gặp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chiều ngày 10/9 là từ nay, quan hệ Việt – Mỹ sẽ bước sang một chương mới.
Triển vọng mở rộng hợp tác song phương
Việc nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược không chỉ tạo điều kiện hợp tác kinh tế mà còn khiến hợp tác trong lĩnh vực quân sự sâu sắc hơn. Theo quan điểm của Việt Nam, việc nâng cấp này có thể báo hiệu sự chấm dứt những hạn chế trong hợp tác, mở ra khả năng mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực vốn dĩ nhạy cảm như chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc phòng và chia sẻ thông tin tình báo. Việc tiến tới quan hệ đối tác chiến lược đòi hỏi phải vun đắp thêm “lòng tin chiến lược”, vốn sẽ thiết lập nền tảng vững chắc và tạo niềm tin cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam để theo đuổi sự hợp tác đa dạng và rộng rãi hơn với Washington.
Cả hai bên đều đồng ý rằng lợi ích an ninh quốc gia của Việt Nam và Mỹ phần lớn gắn kết với nhau. Những lợi ích gắn kết này bao gồm: 1) sẵn sàng thúc đẩy một Việt Nam mạnh mẽ, độc lập; 2) cam kết đối với một trật tự quốc tế dựa trên quy tắc; và 3) sự hiện diện lâu dài của Mỹ trong khu vực.
Hai nước có chung lợi ích trong việc đảm bảo rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam ngày càng hiện đại và có khả năng tự vệ. Đối với Mỹ, một đối tác mạnh mẽ và có năng lực sẽ góp phần ngăn chặn và bảo vệ trước hành vi cưỡng ép của Trung Quốc. Hà Nội và Washington cũng có chung lợi ích trong một trật tự dựa trên quy tắc, chống lại các hành vi thay đổi nguyên trạng một cách đơn phương, cưỡng ép và sử dụng vũ lực. Nhờ có chung thái độ ủng hộ việc tuân thủ luật pháp quốc tế và nền tảng hợp tác an ninh song phương và đa phương liên quan đến pháp quyền, quan hệ an ninh Việt-Mỹ có thể trở nên có nguyên tắc và hấp dẫn đối với người dân ở cả hai nước. Điều đó có nghĩa là các mối quan hệ an ninh chặt chẽ hơn nên được xây dựng dựa trên một tập hợp các nguyên tắc và lý tưởng chung, chứ không chỉ dựa trên ý tưởng chống lại Trung Quốc như một hệ quả của sự cạnh tranh giữa các cường quốc. Nó cũng có nghĩa là củng cố các thể chế khu vực để bảo vệ tốt hơn các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Thứ ba, Mỹ cho rằng sự hiện diện của mình trong khu vực có ý nghĩa trọng yếu đối với việc bảo vệ các lợi ích chung trong khu vực và toàn cầu, và Việt Nam không tỏ thái độ thù địch với sự hiện diện đó. Nhiều người trong giới tinh hoa Việt Nam cho rằng sự hiện diện như vậy của Mỹ giúp duy trì sự ổn định trên Biển Đông.
Về mặt quân sự, Hoa Kỳ và Việt Nam đã từng bước tăng cường hợp tác, đặc biệt tập trung vào an ninh biển. Mặc dù vẫn còn hạn chế về phạm vi, Hoa Kỳ đã cung cấp cho Việt Nam các thiết bị quân sự thiết yếu và đào tạo để nâng cao năng lực hàng hải của Việt Nam. Điều này được chứng minh bằng việc bàn giao hai tàu tuần tra lớp Hamilton cho Việt Nam vào năm 2017 và 2021, với đợt chuyển giao thứ ba đang chờ đợi, và dự kiến bàn giao 12 máy bay huấn luyện mới từ năm 2024 đến năm 2027. Ngoài ra, việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Hoa Kỳ đối với vũ khí sát thương bán vũ khí cho Việt Nam vào năm 2016 đã tạo ra một con đường mới để Việt Nam mua vũ khí của Hoa Kỳ nhằm đa dạng hóa nguồn cung vũ khí của mình khỏi Nga. Sau hội chợ quốc phòng của Việt Nam vào tháng 12 năm 2022, các công ty quốc phòng lớn của Mỹ, bao gồm Lockheed Martin và Boeing, được cho là đang đàm phán với chính phủ Việt Nam về việc bán máy bay trực thăng và máy bay không người lái tiềm năng (1).
Về phần mình, Việt Nam đang đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, mong muốn học hỏi kinh nghiệm tiên tiến của Mỹ trong lĩnh vực thể chế, giáo dục và đào tạo, thiết bị và vũ khí…, và đã nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Mỹ. Việc sử dụng máy bay huấn luyện của Mỹ và áp dụng hệ thống đào tạo phi công kiểu Mỹ không những giúp Việt Nam nâng cấp thiết bị và vũ khí, mà còn giúp đổi mới phương pháp huấn luyện.
Về mặt kinh tế, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể hợp tác trong các lĩnh vực then chốt như chuyển giao công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng và năng lượng xanh. Vị thế của Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất trong số 10 đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ (với tư cách là một khối, ASEAN đứng thứ ba cùng với Trung Quốc và EU) làm nổi bật sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà sản xuất Mỹ đang tìm kiếm các lựa chọn thay thế cho Trung Quốc. Hoa Kỳ có thể hỗ trợ nỗ lực đa dạng hóa kinh tế của Việt Nam bằng cách khuyến khích các công ty Mỹ chuyển đến hoặc kết hợp chuỗi cung ứng của họ với Việt Nam.
Thương mại song phương giữa hai nước đã phát triển vượt bậc trong ba thập kỷ qua và đầu tư song phương lên tới hàng tỷ USD. Hoạt động thương mại hàng hóa của Việt Nam-Hoa Kỳ vượt quá 138 tỷ đô la vào năm 2022, một sự mở rộng đáng chú ý từ gần như không có liên kết kinh tế nào khi các mối quan hệ được thiết lập 28 năm trước. Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của hàng hóa Việt Nam, bao gồm dệt may, giày dép và điện tử. Việt Nam mua các sản phẩm của Hoa Kỳ như bông và đậu nành, đồng thời tiếp nhận đầu tư của các công ty lớn của Hoa Kỳ. Là một trong 14 đối tác triển khai Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì Thịnh vượng (IPEF), Việt Nam và Hoa Kỳ hiện đang đạt được tiến bộ trong việc hoàn thiện văn bản về cả bốn trụ cột của IPEF.
Sau khi nâng cấp quan hệ, hai nước sẽ tập trung vào những lĩnh vực như hợp tác chuỗi cung ứng, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi năng lượng, kinh tế số, kinh tế xanh và phát triển công nghiệp chế tạo.
Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ là lĩnh vực hợp tác mang tính đột phá. Hai nước sẽ tập trung vào việc tạo nền tảng công nghệ số, hệ sinh thái bán dẫn, hay ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, chuyển đổi năng lượng, công nghệ sinh học, y tế, dược phẩm cũng sẽ được chú trọng.
Hợp tác phát triển khu vực Mekong
Tại tiểu vùng Mekong, Hoa Kỳ ủng hộ hợp tác xuyên biên giới nhằm giải quyết kết nối kinh tế, quản lý tài nguyên thiên nhiên, an ninh phi truyền thống và phát triển nguồn nhân lực trong khuôn khổ Mekong-Hoa Kỳ. Quan hệ đối tác (MUSP). Kể từ năm 2009, Hoa Kỳ đã viện trợ và hỗ trợ 5,8 tỷ USD để hỗ trợ tiểu vùng sông Mê Công. MUSP hợp tác với hơn 14 cơ quan chính phủ Hoa Kỳ để cung cấp cho người dân Việt Nam và tiểu vùng sông Mekong. Ngoài ra, theo MUSP, Quan hệ đối tác năng lượng Nhật Bản-Hoa Kỳ-Mekong (JUMPP) tạo điều kiện triển khai năng lượng sạch, thương mại điện khu vực và kết nối điện, cũng như phát triển thị trường điện quốc gia và khu vực (2). Chính vì vậy, nâng cấp quan hệ với Mỹ, Việt Nam có thể tìm thấy sự hỗ trợ đáng kể trong việc thúc đẩy sự phát triển ở ĐBSCL.
Hợp tác ở Biển Đông chống lại sự đe doạ từ Trung Quốc
Các chuyên gia Việt Nam và Mỹ đều công nhận tầm quan trọng của an ninh hàng hải đối với lợi ích quốc gia của hai bên. Trong thập kỷ qua, sức ép “vùng xám” mà Bắc Kinh gây ra đối với Hà Nội ở Biển Đông đã có sự gia tăng đều đặn về tần suất và cường độ. Sau khi hoàn thiện hầu hết các cơ sở hạ tầng chính trên các căn cứ đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa vào cuối năm 2017, Trung Quốc đã có thể triển khai một số lượng lớn tàu hải quân, tuần duyên và đặc biệt là tàu dân quân cách bờ biển Trung Quốc 800 dặm. Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn nguyên trạng thời bình. Trung Quốc giờ đây có thể duy trì các cuộc tuần tra quy mô lớn và kéo dài đối với các hoạt động đánh bắt cá và khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam nằm trong cái gọi là “đường 9 đoạn”.
Với lợi thế về quân số, khả năng chiếm ưu thế về tình báo, giám sát và do thám (ISR) của Trung Quốc cùng thái độ sẵn sàng gia tăng nguy cơ va chạm mang lại cho Bắc Kinh lợi thế đáng kể. Các tàu hải quân, thực thi pháp luật và dân quân của các nước láng giềng, bao gồm cả Việt Nam, không thể đáp trả một cách tương xứng về cách thức và quy mô trước mọi hoạt động triển khai của Trung Quốc. Điều này khiến Việt Nam và các bên tham gia khác ở Đông Nam Á không thể đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư dân sự hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, dẫn đến sự giảm sút chậm nhưng đều đặn của các ngành công nghiệp ngoài khơi, được thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực năng lượng ngoài khơi của Việt Nam. Sự hiện diện ngày càng gia tăng của lực lượng hải quân, lực lượng thực thi pháp luật và dân quân Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế hợp pháp của Việt Nam cho thấy cách thức xúc tiến yêu sách “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh và sự suy yếu trong việc thực thi luật pháp quốc tế ở vùng biển Đông Nam Á.
Sau khi quan hệ Việt – Mỹ được nâng cao, Mỹ sẽ có thể giúp Việt Nam nhiều hơn nữa về tăng cường năng lực biển. Mỹ chủ yếu tập trung hỗ trợ xây dựng năng lực tuần tra và giám sát hàng hải của Việt Nam. Mỹ cũng đã hỗ trợ ngoại giao cho Việt Nam và các bên tham gia khác ở Đông Nam Á. Theo các chuyên gia Mỹ, những sự hỗ trợ này là hữu ích nhưng chưa đủ. Trong khi đó, Việt Nam tiếp tục dựa vào ASEAN để quản lý tình hình vốn đang ngày càng tồi tệ. Sự hiện diện và can dự của Mỹ trong khu vực đóng vai trò làm thế cân bằng với Trung Quốc. Việc nâng cao quan hệ Việt- Mỹ sẽ giúp Việt Nam có thêm nhiều lợi thế. Mỹ có thể cho phép Việt Nam tiếp cận các thiết bị quân sự hiện đại của Mỹ trong dài hạn. Chưa kể, Mỹ có thể giúp Việt Nam trong việc hiện đại hoá quân đội, trong đó tập trung vào lực lượng hải quân và không quân.
Hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân
Trong tương lai, Việt Nam có thể hợp tác với Mỹ trong lĩnh vực hạt nhân dân sự. Trước đây, Việt Nam đã bày tỏ sự quan tâm đến việc phát triển vượt ra ngoài mối quan hệ nhà cung cấp-khách hàng với Mỹ bằng cách thiết lập các cơ chế hợp tác nghiên cứu công nghệ hạt nhân, phát triển nguồn nhân lực, cũng như pháp luật và thể chế liên quan đến năng lượng hạt nhân. Hai cường quốc khác là Nga và Trung Quốc cũng tỏ ý định sẵn sàng giúp Việt Nam phát triển công nghệ hạt nhân, thế nhưng, đối với Việt Nam, Nga và Trung Quốc có hai nhược điểm tiềm tàng: 1) Nguồn cung cấp từ Trung Quốc và Nga không sở hữu công nghệ an toàn, đáng tin cậy và đảm bảo; và 2) Hai nhà cung cấp này từng lợi dụng các mối quan hệ như vậy để thao túng chính trị và chính sách. Do đó, điều này có thể làm giảm quyền tự chủ chiến lược của nước tiếp nhận.
Thách thức cho việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ
Trong khi những lo ngại về an ninh liên quan đến Trung Quốc là động lực lớn nhất để Mỹ khởi xướng các sáng kiến xây dựng năng lực cho lực lượng vũ trang Việt Nam, nhiều chuyên gia của cả hai nước đều xác định Trung Quốc là nhân tố kìm hãm chính. Cụ thể, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhận thấy rằng Việt Nam có được lợi ích tối ưu khi mối quan hệ quân sự với Mỹ không làm gián đoạn quá mức mối quan hệ với Trung Quốc. Bất chấp những khác biệt đáng kể và lịch sử đầy biến động, Trung Quốc vẫn là nước có mối quan hệ đối ngoại quan trọng nhất đối với Việt Nam, một phần vì sự gần gũi về địa lý. Việt Nam cũng không muốn “theo phe” Mỹ hoặc bị coi là đứng về bất kỳ phe nào.
Bắc Kinh có thể khai thác sự e ngại của Hà Nội về sự thay đổi chế độ để gieo rắc mối bất hòa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do vị trí gần Trung Quốc, các tranh chấp song phương phức tạp ở Biển Đông và lịch sử nhiều lần xâm lược từ phương bắc, Hà Nội sẽ thận trọng tránh bất kỳ hành động nào giống như đối đầu với Bắc Kinh (3).
Bởi Trung Quốc vừa là động lực vừa là nhân tố kìm hãm việc phát triển quan hệ an ninh chặt chẽ hơn giữa Việt Nam và Mỹ, nên theo một số chuyên gia, Việt Nam có thể sẽ duy trì hai chính sách đã có từ lâu trong việc xác định mối quan hệ hợp tác với Mỹ trong hiện đại hóa quân sự và xây dựng năng lực: Chính sách đối ngoại “đa hướng” (đa phương hóa) và chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam (không thiết lập liên minh quân sự, không liên kết với một quốc gia để chống lại một quốc gia khác, không cho phép đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Với chính sách đối ngoại “đa hướng”, Hà Nội nhiều khả năng sẽ không chỉ tiếp cận Washington mà còn tìm đến các bên tham gia lớn khác, đáng chú ý là Tokyo, Moscow, New Delhi, Canberra và Bắc Kinh. Chính sách “bốn không” có nghĩa là nếu có thể, Việt Nam sẽ né tránh việc hợp tác đầy đủ về các khía cạnh được coi là rõ ràng chống lại Trung Quốc trong Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ theo đuổi các mối quan hệ quân sự nhằm tăng cường bảo vệ nền độc lập, chủ quyền và an ninh, đồng thời sẽ hỗ trợ các sáng kiến chiến lược thúc đẩy pháp quyền – đặc biệt là những sáng kiến nhằm đối phó với hành động của bất kỳ quốc gia nào muốn tìm cách làm suy yếu pháp quyền.
Các thách thức đáng kể khác bao gồm chính sách của Mỹ liên quan đến xuất khẩu vũ khí sát thương, vấn đề nhân quyền và tự do dân sự ở các nước được hỗ trợ, các đạo luật Mỹ nhằm vào các nước mua vũ khí của Nga (Đạo luật chống lại các đối thủ của Mỹ thông qua trừng phạt (CAATSA)), hạn chế của Việt Nam trong khả năng tiếp nhận công nghệ quân sự của Mỹ, bao gồm chi phí, năng lực tiếp thu, khả năng phối hợp hoạt động với các hệ thống hiện tại (chủ yếu là hệ thống của Nga), và rào cản ngôn ngữ giữa hai bên.
____________
Tham khảo:
1. https://www.washingtonpost.com/national-security/2023/09/01/vietnam-biden-partnership-china/
2. https://www.state.gov/the-united-states-vietnam-relationship-celebrating-10-years-of-comprehensive-partnership-and-28-years-of-diplomatic-relations/
3. https://fulcrum.sg/u-s-vietnam-relations-ready-for-a-strategic-partnership-upgrade/
* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do