Theo dữ liệu mà RFA ghi nhận từ Marinetraffic, tàu khảo sát của Trung Quốc Hải dương Địa chất 4 rời vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam từ 3-5/4/2023, nhưng trở lại từ ngày 7/4 đến nay. Trong những ngày qua, con tàu này khảo sát một khu vực rất rộng, phía bắc cách đảo Phú Quý của Việt Nam khoảng 150 hải lý, phía nam khảo sát khu vực thăm dò dầu khí Tư Chính mà Việt Nam đang hợp tác với Nga. Cuộc khảo sát này vẫn diễn ra “bình thường” trong chuyến thăm của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken tới Việt Nam từ ngày 14-16/4/2023. Trong ngày 17/4/2023, có tin Hoa Kỳ sẽ cung cấp thêm cho Việt Nam một tàu tuần duyên nữa. RFA phỏng vấn Tiến sỹ Nagao Satoru ở Viện Nghiên cứu Hudson về các đường hướng ngoại giao của Việt Nam trong tương lai, giữa quan hệ với 3 nước Mỹ, Trung, Nga.
RFA. Trước và sau chuyến thăm của Tập Cận Bình đến Nga hôm 20/3/2023, tàu khảo sát của Trung Quốc Haizhang Dizhi 4 Hao (Hải dương Địa chất 4) xâm nhập dài ngày trong bãi Tư Chính, nơi Việt Nam hợp tác với Nga khai thác dầu khí. Ngày 3/4/2023, nó trở về Hải Nam nhưng sau đó trở lại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 7/4/2023 đến nay, trong chuyến thăm của Ngoại trưởng Antony Blinken đến Việt Nam (14-16/4/2023). Những điều này có hàm ý gì cho Việt Nam hay không?
TS Nagao Satoru: Động thái của Trung Quốc ở Biển Đông chứng tỏ Trung Quốc đang tìm “khoảng trống quyền lực” (power vacuum) ở khu vực khai thác dầu khí mà Việt Nam và Nga hợp tác. Trong khoa học chính trị, thuật ngữ “khoảng trống quyền lực” chỉ tình trạng ai đó ở vị trí nắm quyền lực, nhưng rồi mất quyền kiểm soát một thứ gì đó, và không ai thay thế.
Trong quá khứ, ở Biển Đông, Trung Quốc chỉ hành động khi tìm thấy khoảng trống quyền lực. Vào những năm 1950, khi Pháp rút khỏi khu vực, Trung Quốc đã chiếm một nửa quần đảo Hoàng Sa. Vào những năm 1970, khi Mỹ rút khỏi Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm thêm một nửa quần đảo Hoàng Sa. Vào cuối những năm 1980, sau khi quân đội Liên Xô giảm quân số ở Việt Nam, Trung Quốc đã chiếm 6 thực thể thuộc quần đảo Trường Sa. Và vào thập niên 1990, sau khi Mỹ rút khỏi Philippines, Trung Quốc đã chiếm đá Vành Khăn.
Giờ đây, Nga đang tập trung mọi nỗ lực vào Ukraine. Do đó, không có khả năng Nga đang ngăn chặn các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông. Thật vậy, hợp tác Nga – Trung gần đây cho thấy hợp tác với Nga không hiệu quả để ngăn chặn Trung Quốc.
Ví dụ, trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô không xuất khẩu vũ khí sang Trung Quốc. Tuy nhiên, sau Chiến tranh Lạnh, Nga lại xuất khẩu nhiều loại vũ khí sang Trung Quốc, kể cả chuyển giao công nghệ để Trung Quốc tự chủ sản xuất.
Kể từ khi cuộc xâm lược của Nga ở Ukraine bắt đầu, Nga dựa vào Trung Quốc nhiều hơn. Thu nhập của Nga dựa vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên. Nhưng do lệnh trừng phạt chống lại Nga, Trung Quốc là nước nhập khẩu tài nguyên thiên nhiên chính từ Nga. Ngoài ra, vì thiếu nguồn lực, Nga cần hỗ trợ vật chất từ Trung Quốc để tham chiến ở Ukraine. Giờ đây, đối với Nga, Trung Quốc là một đối tác rất quan trọng.
Trong Chiến tranh Lạnh, hợp tác với Liên Xô là một phương pháp hữu ích để ngăn chặn hành động quân sự của Trung Quốc. Nhưng bây giờ, hợp tác với Nga sẽ không có tác dụng đối với Việt Nam để ngăn chặn Trung Quốc hành động nữa. Việt Nam cần những đối tác mới như Mỹ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và các nước cùng chí hướng.
RFA. Trung Quốc càng thắt chặt quan hệ với Nga khi Nga sa lầy trong cuộc chiến ở Ukraine. Tại sao?
Nagao Satoru: Trung Quốc đã quyết tâm thách thức Mỹ. Theo Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, Trung Quốc gần đây đang tăng số đầu đạn hạt nhân của họ lên 1000 vào năm 2030 và 1500 vào năm 2035. Hoa Kỳ có 1500 đầu đạn hạt nhân cho mục đích chiến lược. Trung Quốc đang cố gắng sở hữu cùng số lượng đầu đạn hạt nhân cho mục đích chiến lược, tương tự như Mỹ.
Theo SIPRI (một think tank ở Thụy Điển), Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự 72% trong giai đoạn 2012-2021 (một thập kỷ) trong khi Mỹ giảm 6,1% trong cùng thời kỳ.
Trung Quốc đang thách thức Mỹ. Vì vậy, đối với Trung Quốc, thái độ của Nga đối với Mỹ cũng giống như thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ. Trung Quốc và Nga cùng chia sẻ một cái nhìn về nước Mỹ. Vì vậy nếu Trung Quốc cần thách thức Mỹ, Trung Quốc cần hợp tác với Nga.
Nga có 1500 đầu đạn hạt nhân. Nếu Trung Quốc và Nga kết hợp với nhau, Mỹ sẽ phải đối mặt với một tình huống nghiêm trọng.
Tuy nhiên, nếu Trung Quốc ủng hộ Nga một cách rõ ràng, Mỹ sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ đối với Trung Quốc. Trung Quốc muốn tránh tình trạng như vậy. Do đó, hỗ trợ quân sự của Trung Quốc cho Nga cho đến nay vẫn ở trạng thái bí mật. Ví dụ, Trung Quốc đã xuất khẩu súng trường cho Nga dưới danh nghĩa “mục đích săn bắn”.
RFA. Các nước Đông Nam Á trong đó có Việt Nam tính toán điều gì khi nhiều nước trong số họ “không chọn bên” trong cuộc chiến Ukraine? Họ có tính toán đến nhân tố Trung Quốc không?
Nagao Satoru: Nhìn từ trật tự dựa trên luật lệ, rõ ràng các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam nên đứng về phía Ukraine. Nếu cho phép hành động đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực, có khả năng Trung Quốc sẽ khơi mào một cuộc chiến tranh tương tự với các nước xung quanh Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, các nước trong khu vực như Việt Nam đang lo lắng về một thực trạng khác. Ngay cả khi các nước trong khu vực chọn lập trường mạnh mẽ đối với Trung Quốc và Nga, các nước này vẫn lo ngại rằng Mỹ và các nước cùng chí hướng sẽ không hỗ trợ cho họ đầy đủ.
Trong trường hợp này, các nước trong khu vực biết những gì xảy ra trong Thế chiến II. Khi Đức ném bom London vào năm 1940, tổng thống Mỹ đã lên kế hoạch tham chiến để hỗ trợ người Anh.
Tuy nhiên, tổng thống Mỹ cần những lý do chính đáng để thuyết phục công dân Mỹ huy động và tổ chức lại quân đội tham chiến. Trước khi đồng minh của Đức là Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng vào cuối năm 1941, Mỹ không thể biện minh cho việc can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Anh-Đức.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á đang có một mối lo ngại rằng tình trạng tương tự sẽ tái diễn.
Đặc biệt, trong bối cảnh Mỹ cần chia sẻ nhiều nguồn lực để giải quyết vấn đề Ukraine, liệu Mỹ có thể hỗ trợ các nước Đông Nam Á trước sự đe dọa của Trung Quốc? Mối quan tâm này đang vang lên trong tâm trí người Đông Nam Á. Do đó, nhiều quốc gia Đông Nam Á đang theo dõi tình hình một cách thận trọng và trì hoãn quyết định chọn bên.
Góc nhìn từ phía người Nhật như tôi, phía Mỹ có lợi cho các nước Đông Nam Á. Nhưng chính phủ các nước ấy vẫn chưa quyết định
RFA. Sự khác biệt cơ bản về mặt nhận thức của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc, Nga đối với các vấn đề quan trọng nhất như Đài Loan, Ukraine là gì?
Nagao Satoru: Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc đứng ở hai phía đối lập ít nhất trên hai phương diện. Thứ nhất là khoảng cách giữa họ về nhận thức. Thứ hai, tính toán hai mặt: lợi ích và chi phí của họ.
Khoảng cách nhận thức giữa hai nước này trước hết đặc biệt tồn tại ở nhận thức đối với quy tắc quốc tế hiện hành. Nhật Bản (và Mỹ) đã cố gắng duy trì trật tự hiện tại trên thế giới. Trái ngược với điều này, Trung Quốc muốn thách thức trật tự dựa trên luật lệ hiện tại.
Vấn đề Đài Loan là một trong những ví dụ điển hình. Không còn nghi ngờ gì nữa, Đài Loan hiện nay đã độc lập. Nhưng Trung Quốc yêu cầu nhiều nước chấp nhận logic của họ rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc. Do đó, Mỹ, Nhật Bản và các nước khác tôn trọng yêu sách của Trung Quốc, cái gọi là “Chính sách Một Trung Quốc” với tư cách là một yêu sách của Trung Quốc (chứ không phải yêu sách của Hoa Kỳ hay Nhật Bản). Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn chưa hài lòng và có nhiều động thái chuẩn bị về mặt quân sự để cưỡng ép và chiếm đóng Đài Loan. Theo quan điểm của Mỹ và Nhật Bản, thái độ như vậy của Trung Quốc là thách thức trật tự dựa trên luật lệ và là hành động đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực.
Tuy nhiên, nhận thức của Trung Quốc lại hoàn toàn khác. Nỗ lực của Hoa Kỳ và Nhật Bản nhằm ngăn chặn hoạt động quân sự của Trung Quốc nhằm cưỡng ép Đài Loan mới là hành vi thay đổi hiện trạng, vì theo logic của họ, Đài Loan là một phần của Trung Quốc.
Nhìn từ khoảng cách nhận thức như vậy, Mỹ và Nhật Bản coi hành động quân sự của Nga ở Ukraine là hành động đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Nhưng nhìn từ phía Trung Quốc, động thái của Nga đối với Ukraine cũng giống như động thái của Trung Quốc đối với Đài Loan.
Khi so sánh tính toán lợi ích và chi phí, Nhật Bản và Trung Quốc chọn những bên khác nhau. Nhật Bản là đồng minh chính thức dựa trên một hiệp ước của Mỹ và dựa vào sức mạnh quân sự của Mỹ. Ví dụ, khả năng răn đe hạt nhân của Nhật Bản phụ thuộc vào khả năng răn đe mở rộng của Mỹ (chiếc lược “chiếc ô hạt nhân”).
Nhật Bản sát cánh với Ukraine là lập trường rất rõ ràng với tư cách là đồng minh của Mỹ.
RFA. Nhật Bản và Trung Quốc đối lập nhau gay gắt về cuộc chiến của Nga ở Ukraine và các vấn đề an ninh ở châu Á, trong khi Việt Nam duy trì quan hệ hữu nghị với cả Nhật Bản và Trung Quốc. Vậy chiến lược của Việt Nam hiện nay là gì? Và Việt Nam có khả năng sẽ lựa chọn như thế nào trong tương lai?
Nagao Satoru: Đối với Việt Nam, Trung Quốc là mối đe dọa an ninh của họ. Vấn đề an ninh rất quan trọng. Như vậy, Nhật Bản và Mỹ tốt hơn nhiều cho Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đồng thời phải thấy rằng, nếu Việt Nam rõ ràng chọn bên Mỹ – Nhật, khả năng cao Trung Quốc sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và quân sự đối với Việt Nam. Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam. “Mời gọi” những biện pháp trừng phạt như vậy không phải là lợi ích cho Việt Nam. Vì vậy, ở thời điểm này, việc chọn bên là quá khó đối với Việt Nam. Cách chọn của Việt Nam hiện nay là dễ hiểu.
Nhưng đồng thời, Việt Nam cũng cần nghĩ về những gì sẽ xảy ra trong dài hạn. Điều gì sẽ xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc trong tương lai? Đặc biệt là cuộc cạnh tranh Mỹ – Trung, bên nào sẽ thắng? Thật vậy, tôi tin rằng nước Mỹ đang trên đường giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Có ba lý do.
Thứ nhất, Mỹ vẫn mạnh hơn Trung Quốc. Cơ sở dữ liệu của SIPRI chỉ ra rằng chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ vào năm 2020 lớn hơn ba lần so với Trung Quốc.
Thứ hai, Mỹ có nhiều đồng minh chính thức bao gồm NATO, các nước Trung và Nam Mỹ, Israel, Australia, New Zealand, Thái Lan, Philippines, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản (tổng cộng 53), nhưng đồng minh chính thức duy nhất của Trung Quốc là Triều Tiên.
Thật vậy, số lượng đồng minh là một yếu tố rất quan trọng trong việc xác định bên nào cuối cùng sẽ thắng thế. Ví dụ, trong Thế chiến thứ nhất, bên chiến thắng bao gồm 32 quốc gia, nhưng bên thua cuộc chỉ bao gồm 4 quốc gia. Trong Thế chiến thứ hai, bên thắng có 54 nước, nhưng bên thua chỉ gồm 8 nước. Trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô – Hoa Kỳ, bên thắng có 54 nước, bên thất bại chỉ có 26 nước.
Thứ ba, những hành động gần đây của Hoa Kỳ cho thấy Hoa Kỳ có kế hoạch dài hạn để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh. Ví dụ, không có sự khác biệt trong chính sách Trung Quốc giữa đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Chính quyền Barack Obama bắt đầu “tái cân bằng” lực lượng quân sự Hoa Kỳ khỏi châu Âu và hướng tới châu Á. Kể từ đó, cả Chính quyền Trump và Chính quyền Biden đều tiếp tục chính sách này. Nhiều người tin rằng cái gọi là “chiến tranh công nghệ cao” là một chính sách của Chính quyền Trump. Nhưng cuộc chiến công nghệ cao, cấm sản phẩm của Huawei và ZTE, bắt đầu khi “Báo cáo điều tra về các vấn đề an ninh quốc gia của Hoa Kỳ do các công ty viễn thông Trung Quốc Huawei và ZTE gây ra” được xuất bản vào năm 2012, dưới thời Chính quyền Obama.
Thật vậy, lịch sử của Hoa Kỳ chỉ ra rằng Hoa Kỳ sẽ giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Trong lịch sử 246 năm của mình, Hoa Kỳ đã biến đổi từ một thuộc địa duy nhất của Đế quốc Anh thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Trong thời gian này, tất cả các đối thủ của Mỹ, kể cả Đức, Nhật Bản và Liên Xô đều biến mất.
Và thực sự, Mỹ đã có một kế hoạch dài hạn để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh. Ví dụ, trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã có “Kế hoạch màu da cam” (“Orange Plan” ) để đánh bại Nhật Bản và đã thực hiện nó. Nhưng khi kế hoạch được giải mật vào năm 1974, thế giới đã ngạc nhiên khi biết rằng cũng có những kế hoạch khác bao gồm “Kế hoạch Đỏ” để đánh bại Anh và Canada. Hoa Kỳ đã chuẩn bị sẵn sàng cho mọi tình huống bất ngờ. Nếu Tổng thống Biden nói rằng Trung Quốc là “đối thủ nặng ký nhất” của mình, thì đương nhiên có thể kết luận rằng Mỹ có kế hoạch đánh bại Trung Quốc.
Mỹ vẫn mạnh hơn Trung Quốc. Mỹ có thêm nhiều đồng minh. Và Mỹ có một kế hoạch để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh. Ngay cả khi Mỹ phải đối mặt với một tình huống nghiêm trọng trong ngắn hạn, kết quả dài hạn sẽ vẫn như vậy.
Nếu vậy thì Việt Nam phải làm gì? Việt Nam cần chuẩn bị trước cho cuộc leo thang cạnh tranh Mỹ – Trung trong tương lai. Nếu nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc, nền kinh tế ấy có nguy cơ trở thành hành khách của một con tàu chìm. Tất nhiên, gần đây, Việt Nam đang thực sự chuẩn bị cho tình huống đó. Ví dụ, Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương nhằm tạo ra một thị trường mới không phụ thuộc vào Trung Quốc. Việt Nam cũng đang tăng cường thương mại với Mỹ. Điều đó có lợi cho Việt Nam với tư cách là một chiến lược trường kì.